Mua bản dịch trọn vở Tây Sương Ký: 150.000đ (file word + pdf bản text)
Call/Zalo: 0968017897
Giới thiệu vở kịch của dịch giả Nhượng Tống
Vở Tây Sương Ký tôi dịch đây nguyên là một vở tuồng Tàu. Người viết vở tuồng ấy là Vương Thực Phủ (người đời Nguyên).
Cũng như tất cả các nhà viết tuồng ở Đông phương hay Tây phương, thường lấy một truyện xưa làm “lam bản”, họ Vương viết vở tuồng này lấy truyện “Hội Chân ký” làm lam bản. Hội Chân có nghĩa là “gặp tiên”. Nhưng “tiên” ở đây chỉ là một nàng tiên sa xuống cõi trần, nghĩa là một người con gái đẹp thôi vậy. Người viết truyện Hội Chân là Nguyên Vi Chi, một thi sĩ tề danh và là bạn thân với Bạch Lạc Thiên đời Đường. Trong truyện chép sự gặp gỡ của Trương Quân Thụy cùng Thôi Oanh Oanh. Nhưng người đời sau, bằng vào các thơ từ, các bia văn của họ Nguyên cùng của những danh sĩ cùng thời đó, thì vai Quân Thụy chẳng phải là ai, mà lại chính là Nguyên Vi Chi.
Vậy thì “Hội Chân ký” chỉ là Vi Chi ghi lại một chuyện tình của mình trong lúc thiếu thời. Sở dĩ phải mượn tên người khác, chỉ là vì trong chuyện có một đôi điều bất đạo đức mà người viết không tiện tự nhận mà thôi.
Theo vào “Hội Chân ký” họ Vương viết vở Tây Sương Ký. Hai chuyện khác nhau nhất là ở đoạn cuối; Hội Chân thì kết quả là ly biệt, mà Tây Sương Ký kết quả là đoàn viên (thêm 4 chương cuối cùng).
Đoàn viên – như lời bác sĩ Hồ Thích – ấy là một cái “mê tín” của bao nhiêu nhà tiểu thuyết nước Tàu từ trước đến giờ! Tuy nhiên cái sáo ấy nó hơi ngấy cho những người có quan niệm văn học cao hơn! Vì vậy, Thánh Thán (một nhà phê bình văn học nổi tiếng đời Minh-Thanh) mới võ đoán mà cho rằng 4 chương cuối của Tây Sương Ký không phải là do Vương Thực Phủ viết. Ông cho rằng một nhà văn đại tài đã viết nổi 16 chương đầu của vở này, đâu lại có “trẻ con” mà viết thêm 4 chương đoạn cuối. Vậy, cái đoạn cuối ấy chỉ là của một tay dốt nát hiếu sự, muốn đem đuôi chó mà “nối điêu”! Ấy là ý của riêng ông. Chứ những danh sĩ trước ông như Lý Trác Ngô, sau ông như Hồ Thích, thì đều công nhận Tây Sương Ký là hay, mà đều không dị nghị gì về bốn chương ấy cả. Theo ý bác sĩ họ Hồ, thì cái quan niệm về văn nghệ đời Nguyên chưa được tiến bộ cho lắm. Vì vậy, ta không lạ gì một người như Vương Thực Phủ sau khi đã vẽ xong con rắn Tây Sương lại thêm cho nó bốn cái chân ngộ nghĩnh và nặng nề! Vả lại, ta cũng không có gì là chứng cớ chắc chắn để chứng ra rằng bốn cái chân ấy vẽ ra chẳng phải tự ngọn bút họ Vương. Lời võ đoán của Thánh Thán chẳng qua vì quá yêu Thực Phủ thôi vậy.
Để nguyên bản của Tây Sương ký không bị sai lạc với tích cũ của Hội Chân ký, khi dịch bản này, tôi bỏ qua không dịch 4 chương cuối. Vả lại người đọc sẽ có thêm được cảm giác lai láng, bồi học khi đọc xong cuốn sách này. Đến như việc dịch, chỗ nào nguyên văn là văn xuôi tôi sẽ dịch ra văn xuôi, chỗ nào nguyên văn là từ khúc, tôi sẽ dịch sang các thể lục bát hay lục bát gián thất. Ý tôi mong muốn gặp được môt người thông thạo có thể lựa các câu văn vần của tôi dịch, theo các giọng hát tuồng, hát chèo, và đưa vở này lên sân khấu… Nhưng đó là chuyện về sau này. Còn giờ đây, tôi giới thiệu với các bạn chuyện Hội Chân ký, lam bản của vở Tây Sương.
Nhượng Tống
Viết trên “Pho Mãn Lâu”Đêm 25 tháng 01 năm 1942
Phần Thứ Nhất
Bà lớn vườn xuân truyền mở cửa
Oanh Oanh đêm vắng lén dâng hương,
Con Hồng nhỏ ra vào tin tức,
Cậu Trương mê quấy rối đàn trường.
Chương 1 – Gặp Gỡ
Cảnh thứ nhất: Trong biệt thự họ Thôi
BÀ LỚN – (Cùng Oanh Oanh, Con Hồng, cậu Hoan cùng ra). Nói:
Già đây họ Trịnh, Ông lớn tôi ngày trước họ Thôi, làm chức Tướng Quốc trong triều, chẳng may mắc bệnh vừa mới mất. Chúng tôi hiếm, chỉ được có con Oanh Oanh đây là gái, năm nay mười chín tuổi: Thơ, từ, tính, viết, thêu, dệt, nữ công, nó đều thông thạo cả. Lúc ông lớn tôi còn, đã hứa gả nó cho Trịnh Hằng, cháu gọi tôi bằng cô, con cả ông Thượng Trịnh. Vì dở dang nên nó còn chưa cưới! Con bé này tên gọi Con Hồng, hầu hạ con tôi từ nhỏ. Còn thằng Hoan đây là con nuôi ông lớn tôi. Ông lớn tôi mất, mẹ, con tôi đưa linh cữu về quê nhà ở Bác Lăng. Nhưng đường xá trắc trở, còn chưa đi được ngay. Đến đây là phủ Hà Trung, hãy đưa linh cữu quàn tạm trong chùa Phổ Cứu. Chùa này là công đức của bà Vũ Tắc Thiên hạ sắc cho xây dựng. Sư cụ trong chùa là Pháp Bản, vốn là một nhà sư thế thân cho ông lớn tôi. Vì vậy nhà tôi có làm một lớp nhà riêng ở phía Tây chùa, có thể tạm ở được. Một mặt tôi viết thư vào kinh, gọi Trịnh Hằng ra đưa cả nhà vào Bác Lăng. Nghĩ như lúc ông lớn tôi còn, bàn ăn khoát thượng, người hầu kể trăm. Vậy mà bây giờ ruột thịt chí thân, chẳng qua chỉ quanh quẩn có vài, ba đứa này! Ai mà dễ cầm lòng thương cảm. Hát:
Biết chăng ông dưới suối vàng?
Con côi, vợ goá, bước đường chông gai!
Quê nhà thăm thẳm phương trời,
Xe châu hãy tạm gác ngoài cửa Không.
Tưới hoa lệ đẫm giọt hồng!
Hôm nay chiều trời cuối xuân, thấy mệt người quá! Con Hồng xem vườn trước có vắng, đưa cô ra đứng chơi một lúc giải trí, đi con!
CON HỒNG – Dạ!
OANH OANH – Hát:
Bơ vơ đất khách xuân tàn!
Lạnh lùng, chùa vắng tam quan chặt cài!
Nhuộm hồng nước chảy hoa rơi,
Sầu riêng trăm mối, ngậm ngùi gió Đông.
(Bà lớn cùng các vai vào cả)
Cảnh thứ hai: Trên đường bờ sông Hoàng Hà.
CẬU TRƯƠNG – (Cùng hề ra). Nói:
Tôi họ Trương tên Củng, tự là Quân Thụy. Quê nhà ở Tây Lạc. Cha tôi trước, Thượng Thư bộ Lễ. Còn tôi công danh chưa đạt, du học bốn phương. Hôm nay là thượng tuần tháng hai năm thứ mười bẩy niên hiệu Trinh Nguyên. Tôi vào kinh để nay mai dự kỳ thi Hội. Tôi có người bạn cũ họ Đỗ tên Xác tự là Quân Thực, cùng tôi cùng huyện, cùng học, lại từng kết nghĩa anh em. Về sau anh tôi bỏ văn học võ, thi đậu võ Trạng Nguyên, hiện cầm mười vạn quân đóng giữ Bồ Quan, lĩnh chức Chinh Tây Nguyên soái. Giờ tôi hãy sang thăm anh tôi một chuyến. Rồi hãy vào Kinh, cũng chẳng muộn gì. Nghĩ như tôi: song huỳnh án tuyết, nghiệp văn chương học đã nên tài! Vậy mà: bèo dạt, mây trôi, chí hồ hải bao giờ cho được, a?
Hát:
Sóng thu cất giấu gươm thần!
Buồn xuân đè nặng mấy lần yên thêu!
Bạch:
Chút nợ cầm thư trả chửa xong!
Chỉ nào buộc được gót hoa bồng?
Trời xa, xa thật nhìn còn thấy!
Thăm thẳm Trường An mỏi mắt trông!
Hát:
Dùi mài kinh sử bao công!
Làm thân con mọt sách, long đong thôi có ra gì!
Đất trường thi, ngồi đã nhẵn lì!
Mực mài, nghiên sắt mòn đi mấy phần?
Đường mây chín vạn, muốn chen chân,
Mười năm án tuyết phải nhọc nhằn sớm trưa!
Chí to, thời không gặp, bằng thừa!
Tài cao, người thế chẳng ưa cũng hèn!
Chắc đâu không tủi bút thẹn nghiên,
Văn chương rẻ giá, sách đèn uổng công.
Nói: Đường đi đã đến bên Hoàng Hà rồi đây! Trông mà coi: hình thế mới đẹp làm sao!
Hát:
Cả chín khúc là đâu chưa kể,
Riêng chốn này hình thế đã hiên ngang!
ChẹnU, Yên, ngăn Tần, Tấn, rẽ Tề, Lương,
Bề hiểm trở thật khôn lường, hiếm có.
Lớp sóng bạc ngất trời tung vỗ:
Mây chiều thu khép mở không thường!
Dịp cầu xanh trước bến nghênh ngang:
Rồng mặt nước nhẹ nhàng uốn khúc!
Suốt Nam, Bắc, Đông, Tây đỡ dốc,
Ngang trăm sông mà dọc chín châu!
Con thuyền ai thấp thoáng bóng về đâu:
Lìa cánh nỏ, ruổi mau tên mới bắn!
Sông Ngân mới từ Trời sa xuống hẳn?
Nguồn treo cao, cao tận chín tầng trên!
Bể Đông đường ấy đã quen.
Thấm muôn cánh rộng, tưới nghìn thức hoa!
Muốn vin cành quế cung nga,
Buông chèo đường ấy biết là có nên?
Cảnh thứ ba: Trước quán trọ.
CẬU TRƯƠNG Nói: – Nói chuyện thế mà đã vào tới trong thành. Cửa hàng coi mới lịch sự sao? Hề đâu! Dắt ngựa đây! Chủ quán đâu? Chủ quán!
CHỦ QUÁN (ra) Nói: – Bẩm quan! Chính nhà cháu là chủ cái quán Trạng Nguyên này! Mời quan vào nghỉ chân! Quán nhà cháu có phòng nằm sạch sẽ lắm!
CẬU TRƯƠNG – Nếu vậy, dọn cho trọ vào hạng nhất. Bác quán! Lại tôi hỏi: Ở đây có chỗ nào đi chơi cho giải trí không?
CHỦ QUÁN – Miền nhà cháu đây có toà chùa Phổ Cứu là công đức của bà Võ Tắc Thiên. Chùa làm lộng lẫy lắm: Các khách quan qua lại, ai cũng phải vào xem – Bẩm quan! Chỉ có đấy là đáng vào chơi hơn cả.
CẬU TRƯƠNG – Hề đâu! Xếp hành lý vào, tháo yên cương ch ngựa! Ta sang chơi bên ấy một lát.
HỀ – Dạ! (vào cả).
Cảnh thứ tư: Chùa Phổ Cứu, bên vườn hoa họ Thôi.
PHÁP THÔNG (ra) Nói: – Tiểu tôi là Pháp Thông, học trò cụ Pháp Bản chùa Phổ Cứu. Hôm nay cụ tôi đi làm chay vắng, dặn tôi ở lại chùa, có ai đến thì nhớ về bạch cụ. Nào! Tôi thử ra ngoài cửa đứng, xem có ai đến không nào!
CẬU TRƯƠNG (ra) Ngâm:
Đường quanh, lối vắng đi vào.
Cỏ hoa cửa Phật đón chào khách chơi.
Nói: – Này, đã đến chùa rồi đây! (Cúi chào Pháp Thông).
PHÁP THÔNG – A di đà Phật! Thầy mới ở đâu lại chơi?
CẬU TRƯƠNG – Tôi là người Tây Lạc, qua đây nghe tiếng chùa ta là môt nơi thắng cảnh, nên vào đây trước là lễ Phật, sau nữa hầu thăm sư cụ.
PHÁP THÔNG – Sư cụ tôi đi vắng. Tôi là đồ đệ, tên gọi Pháp Thông. Xin mời thầy vào phương trượng xơi nước!
CẬU TRƯƠNG – Sư cụ đi vắng thì thôi xin cũng đừng cho uống nước. Phiền sư ông dẫn cho đi vãn cảnh một lượut thôi.
PHÁP THÔNG – A di đà Phật!
CẬU TRƯƠNG – (vãn cảnh): Nói: – Chùa làm đẹp thật!
Hát:
Trên điện Phật dạo chơi đã hết
Dưới phòng tăng xem biết đã tường
Trước mặt,kìa là gác chuông!
Này nơi nhà tổ, nọ buồng cơm chay!
Hành lang dạo đó đây hồ khắp.
Vào động rồi, lên tháp xa trông.
Phật tiền khấn vái đã xong.
Xem bà mụ thiện, lễ ông Thánh Hiền.
Nói: – Kìa lại còn một toà chùa nữa! Để tôi sang vãn cảnh một thể!
PHÁP THÔNG – (nắm áo cậu Trương giữ lại) Ấy chết! Bên ấy là biệt thự nhà quan Thôi Tướng Quốc. Xin thầy ở lại đây thôi!
CẬU TRƯƠNG – (nhác trông thấy Oanh Oanh và con Hồng thơ thẩn ở vườn hoa).
Ví không duyên nợ kiếp xưa.
Kiếp này hồ dễ tình cờ xui nên!
Mắt trông kể vạn, kể nghìn,
Con người đẹp thế, đã nhìn thấy ai!
Mắt hoa miệng những nghẹn lời,
Thần hồn tơi tả, lưng trời bay xa!
Nói năng đùa cợt mặc ta!
Nghiêng vai chỉ bứt bông hoa mỉm cười!
Phải chăng đây là cảnh Bồng lai?
Sao tôi lại gặp con người thần tiên!
Trâm hoa cài lệch một bên,
Mặt xuân mừng, giận càng nhìn càng say.
Mày in trăng mới xinh thay,
Cong cong bên mái tóc mây rườm rà!
Sượng sùng miệng chửa nói ra.
Răng là ngọc chuốt, môi là son tươi,
Lâu lâu mới nói nên lời,
Véo von oanh hót bên ngoài lớp hoa!
OANH OANH – Hồng ơi! Ta đi vào trong bà đi!
CẬU TRƯƠNG :
Chân tay mềm mại nõn nà,
Bước đi êm ả, trông mà thấy yêu!
Dịu dàng yểu điệu trăm chiều,
Như cành liễu trước gió chiều thướt tha.
(Oanh Oanh cùng con Hồng vào)
Cánh hồng rải lối bước qua,
Bụi thơm in vết hài hoa rành rành!
Kể chi khoé mắt long lanh,
Chân đi cũng đã hữu tình với ai!
Dùng dằng bước một bước hai,
Khuất mành mới thật đôi nơi cách trùng.
Rõ ràng như thế, phải không?
Bảo sao tôi chẳng trong lòng mê tơi!
Gót tiên cách nẻo trần ai,
Bâng khuâng phong cảnh vắng người buồn tanh!
Buồn trông khói liễu xanh xanh!
Buồn nghe đàn sẻ trước mành xôn xao!
Vườn hoa lê cửa đóng lúc nào!
Tường cao, cao quá! kể cao bằng trời!
Trách trời sao chẳng chiều người?
Làm khuây chẳng được, đứng lười không đang!
Nghĩ hươu, tính vượn trăm đường.
Hương lan còn thoảng, tiếng vàng đã xa.
Gió lay cành liễu la đà.
Tơ hồng vướng vít cánh hoa tơi bời!
Rèm châu lấp lánh mặt người!
Nuốt thầm nước bọt! trông hoài nẻo xa!
Ai bảo dinh quan Tướng phủ Hà?
Tôi thì rằng: chính chùa đức phật bà Quan Âm
Mai đây gió bắt mưa cầm.
Bệnh tương tư sẽ đau ngầm tận xương!
Hại thay cặp mắt như gương,
Liếc ai trong lúc bàng hoàng quay đi!
Dẫu người sắt đá tri tri,
Dễ cầm lòng chẳng say mê được nào!
Trước sân hoa, liễu xinh sao!
Trời trưa bóng tháp thu vào tròn xoe!
Cảnh xuân rực rỡ bốn bề.
Mà con người ngọc đi về nơi nao?
Cảnh Phật đây mà hoá nguồn Đào!
Lời Phê Bình Cả Chương
Nay cầm bút tả đây là người xưa, vậy thì cái người cầm bút tả người xưa đó là ai?
Có kẻ lại đáp rằng:
– Là ta!
Thánh Thán nói:
– Vâng! Là ta! Vậy tôi muốn hỏi: Cái người xưa mà ta cầm bút tả họ đó, họ ở những mười năm, trăm nghìn năm về trước. Nay ta đây cầm bút tả họ, ta có thể biết chắc rằng mười, trăm, nghìn năm về trước, có thật có chuyện đó hay không?
Thưa rằng: Không thể biết được!
– Đã không biết mà nay ta lại cầm bút tỷ mỷ tả họ, vậy thì người xưa ở trong khoảng minh minh có chịu nhận hay không?
Thưa rằng: Người xưa thực chưa từng có chuyện ấy! Mà đến đời xưa thực cũng chưa từng có người ấy nữa! Túng sử đời xưa hoặc giả có người ấy, mà người xưa hoặc giả có chuyện ấy nữa, thế nhưng người xưa đã không hề biết trước rằng sau mười, trăm, nghìn năm lại có ta đây chép chuyện họ, mà bảo cho ta biết; ta lại không có cách gì xuất hồn xuất vía, sống ngược lại mười, trăm, nghìn năm về trước, để hỏi lại người xưa; vậy những chuyện mà ngày nay ta cầm bút tả tỷ mỷ đây, đều là tự ý ta muốn tả, chứ không can dự gì đến người xưa cả. Còn hỏi chi người xưa có chịu nhận hay không!
– Người xưa không nhận thì ai nhận bay giờ?
Ta đã tả thì ta phải nhận.
– Ta đã tả là ta phải nhận, vậy thì trong lúc cầm bút sắp tả, chưa tả, đặt lời lập ý, có thể luộm thuộm được đâu! Chuyện Luận Ngữ nói rằng: “Một lời nói đủ khôn, một lời nói đủ dại; nói không thể không cẩn thận được!” Vì rằng ta nói đến ta, tất là ta yêu ta. Vậy thì ta phải tự yêu lấy lời nói của ta. Ta mà không tự yêu lời nói của ta, thì thật là ta không yêu ta vậy. Tôi thấy các nhà viết tuồng gần đây, trong đoạn thứ nhất, đào kép ra sân khấu, đại loại đều nói bừa ngay ra những câu dông càn vô lễ. Kép tất là vai đàng điếm, đào tất là vai đĩ thoã, như thế mới hả dạ! Cho rằng thế mới là “chung tình chính ở bọn ta” Như vậy, người đời sau đọc sách của ta, há rằng họ lại không biết. Bao nhiêu những tên người xưa mà ta soạn vào trong sách, như hạng Quân Thụy, Oanh Oanh, ông Đỗ, con Hồng, đều là do một mình ta, trong tim trong miệng, vốn có một món “khạc chẳng ra cho, nuốt chẳng vào!” ngứa ngáy vô cùng! Say, mộng sộ lộ! cho đến bây giờ cực chẳng đã, mới thình lình mượn khéo câu chuyện của người xưa, để tự bày giải những nỗi rắc rối trăm hình, nghìn cấp, chứa lại ở trong bụng đã bao nhiêu ngày tháng, đó sao? Trong đó vẹo như đường tắt, tối như đêm tăm, rối như bòng bong, đắng như bồ hòn, giấu như giấu bệnh, nhịn như nhịn đau… Ví phỏng người xưa trước kia thật có chuyện đó, thì là chuyện ta ngày nay quyết không dự biết… Vậy thì ta ngày nay có chuyện đó, cũng là chuyện mà người xưa trước kia quyết không dự biết… Vậy thì ta ngày nay có chuyện đó, cũng là chuyện mà người xưa trước kia quyết không dự biết. Cho nên người đời sau đọc sách ta, họ đã thừa hiểu rằng: Quân Thụy chẳng phải là ai, mà có lẽ lại chính là người viết sách! Oanh Oanh cũng chẳng phải là ai, mà có lẽ lại chính là ý trung nhân của người viết sách! Ông Đỗ, con Hồng cũng chẳng phải là ai, mà có lẽ lại chính là những người quanh quẩn giúp đỡ cho người viết sách! Như vậy mà trong khi cầm bút, không tự yêu được mình, đến nỗi nói bừa ra những câu dông càn vô lễ, cho thế mới hả dạ, thì có phải là tự mình muốn làm hạng đàng điếm, mà cho người trong ý của mình là hạng đĩ thoã hay không? Đọc đoạn đầu vở Tây Sương, coi người ta tả Quân Thụy như thế, ta có thể tỉnh ngộ mà hiểu cái phép ký thác vào bút mực của người xưa vậy.
Các bạn từng xem cách “nhuộm mây nẩy trăng” chưa? Ta muốn vẽ mặt trăng, nhưng mặt trăng không vẽ nổi, vì thế phải vẽ mây. Vẽ mây mà ý không phải vẽ mây… Ý không phải là mây, nghĩa là ý vẫn ở mặt trăng. Thế nhưng thế nào cũng phải để ý vào mây đã… Vậy vẽ mây, lỡ một chút thì đậm quá; lại lỡ một chút thì lạt quá; thế là mây hỏng! Mây hỏng thì trăng hỏng!
Nay vẽ mây đậm lạt vừa phải rồi, nhưng hơi không cẩn thận, để dây một vết bằng hạt bụi nhỏ, thế cũng hỏng mây. Mây hỏng tức là hỏng cả trăng… Nay vẽ mây đậm lạt vừa phải, lại không dây vết nào bằng hạt bụi nhỏ, trông thì như là có, sờ thì như là không, thổi thì như muốn bay, sờ thì như muốn chạy, thế là mây ta vẽ khéo! Mây ta vẽ khéo thế rồi ngày mai người xem sẽ lũ lượt tới, đều nói rằng: Vầng trăng đẹp thật! Tuyệt không một ai là khen đến mây… Như vậy, tuy rất phụ tấm lòng người vẽ ngày hôm qua đã cậm cụi chật vật về việc vẽ mây; thế nhưng xét đến bản tâm người vẽ, có phải chỉ vì trăng, chứ chẳng vì gì mây cả đó sao? Mây cùng trăng, thần lý chính là một. Hợp lại đành rằng hợp không nổi, nhưng chia ra có dễ chia ra được sao? Đoạn đầu vở Tây Sương tả cậu Trương tức là cách đó. Vở Tây Sương viết ra, cốt là vì Song Văn. Thế nhưng Song Văn là trang sắc nước… Trang sắc nước, có phải là cứ mua nhiều son phấn là tô điểm nên được đâu! Vả lại Song Văn là bực người trời… Bậc người trời, thì hạng thợ thuyền sâu kiến ở thế gian có nặn gọt thêm bớt thế nào nổi! Muốn tả Song Văn mà không tả được nên để đó không tả nữa, mà tả cậu Trương trước, đó tức là một phép bí mật của con nhà hội hoạ, gọi là phép “nhuộm mây nẩy trăng” vậy. Vậy thì tả cậu Trương như trong lớp thứ nhất, tức là đậm lạt vừa phải, không để dây vết nào như hạt bụi nhỏ… Ví phỏng không thế, khi tả cậu Trương, lại để cho có mảy may nhỏ là vẻ đàng điếm, thì bên dưới sẽ bôi nhọ đến Song Văn không phải nhỏ. Về chỗ đó, bạn đọc có thể không để ý sao được.
Chương 2 – Xin Trọ
Cảnh thứ nhất: Biệt thự họ Thôi
BÀ LỚN (ra) Nói: – Hồng ơi! Mày truyền lời ta, sang hỏi sư cụ bên chùa, bao giờ thì làm chay cho ông lớn? Hỏi đích đáng rồi, về trả lời ta, nghe!
CON HỒNG -Dạ! (cùng vào).
Cảnh thứ hai: Chùa Phổ Cứu.
PHÁP BẢN (ra) Nói: – Lão tăng đây là Pháp Bản, trụ trì trong chùa Phổ Cứu này. Hôm qua lão vào trong làng làm chay, chẳng hay có khách nào đến thăm chùa không, chú Thông?
PHÁP THÔNG (ra) – Dạ bạch cụ: Hôm qua có một người học trò ở Tây Lạc đến thăm cụ, nhưng không gặp lại trở ra.
PHÁP BẢN – Vậy chú ra cửa coi. Nếu thầy ta đến thì vào nói tôi biết.
PHÁP THÔNG – Dạ.
CẬU TRƯƠNG (ra) – Hôm qua tình cờ gặp cô em. làm cho tôi suốt đêm mất ngủ. Hôm nay lại vào chùa thăm sư cụ, tôi sẽ nói câu chuyện (chào Pháp Thông).
Ví bằng thu xếp không xong,
Thì tôi đây oán sư ông mãn đời!
PHÁP THÔNG – Kìa thầy đã lại! Thầy dạy sao, tiểu tôi không hiểu!
CẬU TRƯƠNG :
Cho tôi thuê một gian ở dãy chùa ngoài.
Ở ngay đối cửa con người hôm qua.
Dù không ghẹo nguyệt, bẻ hoa,
Cũng nhìn cho con mắt oan gia đã đời!
PHÁP THÔNG – Thưa thầy dạy thế nào, tiểu tôi không hiểu…
CẬU TRƯƠNG :
Vốn tính tôi nhát gái lạ đời:
Thoáng trông là thẹn đỏ người lên ngay?
Cớ sao gặp gỡ lần này,
Bể lòng lại thấy vơi đầy yêu đương!
Mắt nhìn đã nảy hồng quang!
Nghĩ càng tê tái, mong càng ngẩn ngơ!
PHÁP THÔNG – Thầy nói thế nào, tiểu tôi không hiểu. Sư cụ đợi đã lâu, tôi xin vào trình lại.
CẬU TRƯƠNG (vào chào Pháp Bản)
Tiếng sang sảng, người to bệ vệ
Tóc bạc phơ, mặt trẻ phây phây!
Chân tu nên mới được thế này,
Thêm vòng hào quang nữa thì thực tượng thầy Đường Tăng.
PHÁP BẢN – Xin mời thầy vào chơi trong phương trượng. Hôm qua lão đi vắng, không được thừa tiếp, xin thầy thứ lỗi cho.
CẬU TRƯƠNG – Bấy lâu nghe tiếng sư cụ, chúng tôi vẫn muốn đến hầu. Không ngờ hôm qua sư cụ lại vắng chùa. Hôm nay được gặp, thực là ba sinh, âu cũng duyên trời chi đây!
PHÁP BẢN – Dám hỏi thầy quý quán đâu ta? Tôn tính đại danh thế nào? Có việc gì qua chơi?
CẬU TRƯƠNG – Chúng tôi họ Trương tên Củng, tự là Quân Thụy, nhân vào kinh dự thi, đường đi qua miền này.
Cụ đã có lòng hỏi đến,
Tôi xin thực chuyện thưa bày:
Quê hương tôi chính ở Lạc Tây,
Nhưng du học nay đây mai đó!
Gia nghiêm trước thượng thư lễ bộ.
Ngoài năm mươi xa bỏ cõi trần.
Bởi một đời, cha thanh liêm không khoét tiền dân,
Nên bốn bể, con trơ trọi chiếc thân công tử xác!
Gió thoảng mát trông lồng gương bạc,
Cụ là người lỗi lạc thông minh,
Tôi đến đây quên cả công danh,
Chỉ mong được nghe kinh lắng kệ.
Giữa đường không có gì làm lễ, gọi là có lạng bạc, cúng vào Tam Bảo, cụ vui lòng nhận cho.
Học trò kiết chỉ lấy đầu làm lễ,
Được đâu như những kẻ có đồng tiền,
Mặc cho miệng thế chê khen.
Chẳng tường gá bạc, không quen tuổi vàng!
Phải đâu giúpcụ tiền lương,
Chẳng qua đồng lễ dâng hương gọi là.
Lòng thành tôi đã dâng ra,
Dám xin cụ chớ nề hà nhận cho!
Mai ngày có trước mặt cô
Mười phần cụ nói đỡ cho một vài,
Thì tôi còn ơn cụ mãn đời…
PHÁP BẢN – Giữa đường gặp gỡ, sao thầy lại bày vẽ ra như thế. Chắc thầy lại có chuyện gì muốn dạy bảo nhà chùa hẳn thôi!
CẬU TRƯƠNG – Thưa thế này thực là đường đột… Chỉ vì nhà trọ rộn rịp quá, khó lòng ôn lại được sách vở, nên muốn nhờ cụ một gian phòng, sớm hôm học tập. Tiền phòng nhiều ít thế nào cũng được, xin cứ tháng đưa hầu.
PHÁP BẢN – Thưa được. Nhà chùa cũng có nhiều phòng bỏ không, xin tuỳ ý thầy chọn. Hay là ở quách ngay phương trượng nằm với lão cho vui.
CẬU TRƯƠNG :
Tôi chẳng cần chái Bắc, hiên Đông!
Gác kinh, nhà tổ, tôi không thiết mà!
Chỉ xin thuê Mái Tây ở cạnh vườn hoa.
Nhà quan Tướng Quốc phủ Hà bên kia!
Chứ nằm chung với cụ nước gì.
CON HỒNG (ra) – nói một mình:
Bà lớn sai tôi sang hỏi sư cụ, bao giờ làm chay cho ông lớn. Hỏi cho rõ rồi về thưa lại.
(Vào chào Pháp Bản) Bạch lạy cụ, bà lớn sai con hỏi bao giờ thì àm chay cho ông lớn.
CẬU TRƯƠNG:
Con người mới khá làm sao.
Bóng dáng thực con nhà lịch sự,
Trăm phần không lẫn nửa trai lơ!
Sẽ cúi đầu khép nép chào sư,
Môi son hé nói thưa phép tắc.
Khuôn mặt đẹp không cần trang sức,
Quần áo xô nhưng khéo mặt cũng xinh!
Cô em đã giống đa tình,
Con hầu lại tinh ranh hiếm có.
Liếc trộm mà xem con mắt nó.
Có thèm đâu nhìn ngó tới mình đây!
Em ơi! Hãy đợi đến ngày,
Ta cùng cô đã sum vầy phượng loan,
Quyết chẳng để em trải nệm quạt mà.
Lại thưa bà kiếm tấm chồng quan cho em nhờ!
PHÁP BẢN (giận dữ) – Thầy này coi người cũng tử tế, mà ăn nói ra cái gì thế!
CẬU TRƯƠNG – Cụ nên rõ tôi nói thế cũng là đáng lắm chứ!
Tội chưa! sư cụ mếch lòng!
Con người tử tế nói sao không lựa lời!
Nhưng nhà quan chi thiếu kẻ hầu trai,
Sang chùa hỏi việc lại sai con đòi?
Cụ còn chối cãi nữa thôi?
Ngứa mồm tôi nói, cấm tôi được nào?
PHÁP BẢN – Không phải thế! Đó là do tấm lòng chí hiếu của tiểu thư. Vì là việc làm chay cho ông lớn nên tiểu thư dốc lòng thành kính không sai ai cả, phải sai chị Hồng sang đây là người hầu cận sang hỏi nhật kỳ.(Quay lại con Hồng): Việc làm chay, đàn tràng đã sắp đặt sẵn sàng. Rằm này là ngày cúng Phật, xin mời bà lớn cùng cô sang dâng hương.
CẬU TRƯƠNG (khóc) – Ối cha ôi là mẹ ôi! Cha mẹ sinh con, bao công khó nhọc! Trời già độc địa, báo đáp được đâu! Tiểu thư là một người con gái, còn biết lo ân trả nghĩa đền. Cho hết lòng của kẻ làm con, tôi cũng xin đưa năm mươi quan tiền, xin cụ mở lượng từ bi, sắm chút lễ vật, cúng siêu độ cho cha mẹ tôi nhân thể. Bà lớn biết ra nữa, chắc cũng chả ngại gì!
PHÁP BẢN – Có chi mà thầy ngại! Chú Thông đâu! Nhận tiền sắm lễ cho thầy!
CẬU TRƯƠNG (hỏi riêng Pháp Thông)– Chắc cô ấy có sang lễ không?
PHÁP THÔNG – Làm chay cho quan Tướng thế nào cô ấy chả sang!
CẬU TRƯƠNG (mừng rỡ) – Thế thì năm chục quan cũng đáng!
Hương kém ấm, ngọc thua mềm!
Trên trời dưới đất khôn tìm thấy hai!
Nói chi ôm ấp lả lơi,
Nhìn suông cũng đủ sướng đời! Cho nên
Tai qua nạn khỏi tự nhiên!
Làm chay nào được bằng nhìn Oanh Oanh!
PHÁP BẢN – Xin mời về cả phương trượng xơi nước!
CẬU TRƯƠNG – Tôi xin phép ra ngoài một chút (ra sân). Con bé chắc ra bây giờ! Mình cứ đứng chờ đây!
CON HỒNG – (từ giã Pháp Bản) Xin cụ đừng cho uống nước. Con xin về thưa lại, kẻo bà lớn quở! (ra).
CẬU TRƯƠNG – (đón chào) Xin chào chị ạ!
CON HỒNG – Không dám, chào cậu!
CẬU TRƯƠNG – Hỏi không phải: Chị có phải chị Hồng, người hầu cô Oanh không?
CON HỒNG – Thưa vâng! Có việc gì phiền cậu hỏi?
CẬU TRƯƠNG – Tôi có một chuyện không biết thưa có tiện không?
CON HỒNG – Tên kia đã bắn khôn về! Lời kia đã nói khôn bề xoá đi! Có chuyện gì cậu cứ nói không ngại!
CẬU TRƯƠNG – Tội họ Trương tên Củng, tự là Quân Thụy, quán ở Tây Lạc, năm nay mới hai mươi ba tuổi, sinh giờ Tí ngày 17 tháng giêng. Tịnh chưa lấy vợ bao giờ!
CON HỒNG – Cái đó ai hỏi cậu đâu! Em cũng không phải thầy số, cần gì cậu phải kể ngày sinh tháng đẻ!
CẬU TRƯƠNG – Xin hỏi chị câu nữa; cô nhà thường khi có ra ngoài không?
CON HỒNG – (giận dữ) Ra ngoài thì làm sao? Câuk là người có học, há không nhớ câu: “Chớ làm việc trái lễ!” Bà lớn em lòng băng dạ tuyết, phép nhà rất nghiêm. Từ đứa trẻ sáu, bảy tuổi, không nghe gọi cũng không dám tự tiện bước lên nhà trên. Cậu không hề có bà con, sao lại được hỏi sỗ sàng như vậy! May mà trước mặt em đây, còn tha thứ được. Chứ bà lớn mà biết, sao chịu để cậu yên! Từ nay mà đi, điều gì nên hỏi thì hỏi, điều gì không nên hỏi chớ có hỏi càn như vậy! (vào)
CẬU TRƯƠNG – (đứng ngẩn người ra một lúc) Thế này thì đến ốm tương tư mà chết mất!
Những nghe nói đã rụng rời!
Đôi mày nặng cả một trời sầu thương!
Phép nhà nghiêm ngặt lạ nhường,
Lấy ai dắt nẻo đưa đường cho nên?
Ví bằng mình sợ mẹ giữ gìn,
Thì quay đi còn ngoảnh lại mà nhìn chi nhau?
Muốn đứt phăng! dễ đứt được đâu!
Mầm tình đã trót ăn sâu trong người!
Ví kiếp này mình cũng lỡ một lầm hai!
Chả hoá ra kiếp trước ta đã mắc tội trời chi đây!
Ta quyết làm cho bồng được lên tay,
Cho mắt này thờ phụng, lòng này mê tơi!
Chỉ nghe nói Vu Sơn xa cách bằng trời!
Ai ngờ lại ở bên ngoài Vu Sơn!
Thân tội này đứng tựa bao lơn.
Nhưng thần hồn những mê man chốn nào?
Này Hồng ơi! Em định đưa tin đến buồng đào.
Hay lại đem chuyện kín thưa vào nhà huyên!
Lòng xuân, có đâu dễ giữ gìn!
Hẳn cũng thấy: Bướm bay từng cặp, oanh chuyền có đôi!
Này Hồng ơi! Em trẻ người nóng tính thế thôi.
Chứ ta đây, cô đấy tốt đôi ai bì!
Miễn em hết sức giúp vì,
Bà dù bó buộc, làm gì được ai?
Mà mặt hoa, ta nhìn được tận nơi;
Mà nhị đào, cô sẽ được cho người tình chung!
Em mà vụng tính không xong,
Thì trai tài, gái sắc, lại cùng trạc tuổi như nhau,
Sẽ trông xuân, xuân đượm nét sầu.
Sẽ nhớ ai, ruột héo, mặt sầu vì ai!
Tội cho cô đức nết vẹn mười,
Mà thiệt cho tôi cũng một đời tài hoa!
Này Hồng ơi! Mày ai chỉ kẻ qua loa;
Mặt ai chỉ thoáng gọi là phấn son;
Cổ ai vừa trắng, vừa tròn,
Ngọc đông, phấn nặn so còn kém xa!
Trên thì, bên vạt áo tà.
Ngón tay muôn muốt như là búp măng!
Dưới thì, dưới bắc quần băng,
Gót chân thuăn thuắt nhỏ bằng cách sen!
Muốn quên hồ dễ mà quên.
Bao nhiêu hình bóng bạn tiên non Bồng,
Thì mình đừng đẹp nữa có được không.
Để tôi thôi cũng chẳng mệt lòng nhớ thương.
Chết! Quên chưa vào chào sư cụ! (Quay vào hỏi Pháp Bản) Thưa cụ, việc tôi xin trọ, cụ dạy thế nào?
PHÁP BẢN – Mái Tây chùa tháp có một gian phòng tĩnh mạc lắm, thầy ở đó thực vừa tiện. Tuỳ ý thầy dọn lúc nào cũng được.
CẬU TRƯƠNG – Thưa vâng! Chúng tôi xin về trọ đem hành lý lại.
PHÁP BẢN – Thế, thế nào thầy cũng dọn lại nhé! (vào)
CẬU TRƯƠNG – Dọn lại thì dọn, nhưng chịu sao cho nổi lạnh lùng đây!
Này Hồng ơi! Buồng văn đệm gối lạnh lùng.
Đèn soi hiu hắt, sách chồng lẻ loi!
Dù đền xong chí cả một đời.
Ngủ sao cho nổi những đêm dài lan man?
Ít ra cũng năm nghìn lần dài thở, văn than,
Với hàng vạn lượt tung màn, đập chăn!
Thoạt gặp nhau, vẻ xinh chưa nhớ rõ mười phần,
Đành không ngủ, căn ngón tay ta tưởng tượng dần cho ra!
Trong như ngà ngọc, đẹp như hoa,
Nhưng hoa mà biết nói, ngọc mà ngát thơm!
Lời Phê Bình Cả Chương
Tôi đã từng xem văn của người xưa và nay. Có người viết mà viết không đến. Có người viết mà viết đến. Có người viết, mà trước chỗ viết, sau chỗ viết, những chỗ không viết đến đều đến được cả. Viết mà viết không đến thì viết câu nào viết câu nào là không đến câu ấy, dù có viết mười, trăm, nghìn, cho đến vạn câu nữa, cũng là mười, trăm, nghìn, vạn câu không đến cả! Hạng người ấy, thà đừng cầm đến bút còn hơn! Viết mà viết được đến, thì viết một câu là một câu đến; lại viết câu nữa, câu nữa cũng lại đến; rồi có viết mười, trăm, nghìn, vạn câu, thì mười, trăm, nghìn, vạn câu cũng đều đến cả.
Như ngài, thực là người biết dùng đến ngòi bút vậy! Đến như viết mà trước chỗ viết, sau chỗ viết, những chỗ không viết đến đều đến được cả, thì người ấy là người lấy lò Cừ làm lòng, lấy thợ Tạo làm tay, lấy Âm Dương làm bút, lấy muôn loài làm mực… Chỗ mà lòng không đến được, bút đã đến rồi.
Chỗ mà bút đã đến, lòng bất tất đến nữa, chỗ mà bút đã đến, lòng đã đến rồi. Chỗ mà lòng đã đến, bút bất tất đến nữa. Đọc văn họ, đọc thì vẫn đọc… Song kẻ biết đọc thì đọc rồi là đọc rồi, còn kẻ không biết đọc thì đọc rồi mà thực là chưa đọc! Sao vậy? Vì văn họ là ở sau, ở trước, ở chung quanh câu văn, chứ không phải ở chính câu văn. Cho nên, viết mà viết không đến, ấy tức như bao nhiêu những tập văn hại giấy, phí mực trong đời bây giờ! Viết mà viết đến, ấy tức như những văn Hàn, Liễu, Âu, Vương, Tam Tô mà đời còn truyền lại. Đến như viết mà trước chỗ viết, sau chỗ viết, những chỗ không viết đến, không chỗ nào là chỗ không đến, thì trừ Tả Truyện ra, ta không còn tìm đâu thấy nữa! Văn Tả Truyện, Trang Tử giống được vẻ phóng khoáng; bảy thiên Mạnh Tử giống được vẻ đột ngột; Chiến Quốc Sách giống được vẻ chu đáo; Thái Sử Công giống được vẻ cao kỳ. Như Trang tử, mạnh Tử, Chiến Quốc Sách, Thái Sử Công thôi còn phải nói gì! Tôi chỉ không ngờ Mái Tây là một vở tuồng mà cũng dùng lối văn ấy. Vậy thì người viết Mái Tây thật là lấy Cừ làm lòng, thợ Tạo làm tay, Âm Dương làm làm bút, mà muôn loài làm mực vậy!
– Sao thế? Tức như hôm trước cậu Trương thoáng trông thấy người đẹp, thật là như trăng bên phương trời, như hoa trên đầu Phật, muốn lại gần cố nhiên là chẳng được, xong muốn xa ra cũng quyết nhiên là chẳng được nào! Đã quyết nhiên chẳng xa được nào, thì cần phải sao cho gần lại… Thế nhưng cho gần lại, thì phải bắt đầu phải làm thế nào? Suốt đêm không ngủ, suốt đêm suy nghĩ, cậu Trương là một tài tử thông minh rất mực, bỗng dưng đã bàng hoàng tính ra. Cậu cho rằng: Việc thiên hạ, có lúc lựa khớp, có lúc lắp mộng… Lựa khớp là việc đầu, lắp mộng là việc cuối…
Câu chuyện ngày nay; chưa tính đến lắp mộng, hãy tính đến lựa khớp đã! Con người đẹp kia, thăm thẳm ở trong biệt thự, cái mộng ấy chưa dễ mà lắp được! Thế nhưng biệt thự ở ngay bên cửa từ bi quảng đại, cái khớp ấy hoạ là có lựa được chăng… Trời sáng rồi chăng? Sao gà vẫn còn chưa gáy! Trống tam canh rồi chăng? Sao trống vẫn còn chửa tan canh! Ta không mong cho lắp mộng, hãy mong lựa khớp đã… Mộng mai sau có lắp nổi chăng? Đó là việc mai sau… Đến như khớp lúc này thì cần phải lựa, cần phải lựa ngay chứ để chậm không xong! Ấy đó là việc ngay lúc này! Ta mong sao cho gà chóng gáy, canh chóng tan, trời chóng sáng, để vào chùa mà hỏi Pháp Thông!
– Gà chưa gáy, canh chưa tan, trời chưa sáng, cậu chưa thể vào chùa mà hỏi Pháp Thông, lòng cậu lúc đó rối như mớ bòng bong, ta có thể tưởng mà biết vậy!
– Nhưng ví phỏng chốc nữa đây gà gáy rồi, canh tan rồi, trời sáng rồi, ta vào chùa hỏi Pháp Thông mà Pháp Thông chẳng nhận lời, thì ta biết làm thế nào cho được? Cố nhiên một là Pháp Thông nhận lời ta, hai là Pháp Thông chẳng nhận lời ta! Nhận lời ta, là sự tự nhiên, mà chẳng nhận lời ta, cũng là sự tự nhiên hoặc muôn một… Nghĩ lại thì nhận lời hoặc chẳng nhận lời, đều có thể cả… Lại nghĩ lại nhận lời ta, phần đó phần ít, mà không nhận lời ta, phần đó phần nhiều! Lại nghĩ lại nữa thì tất nhiên Pháp Thông không nhận lời ta!
– Thôi thế là việc gấp rồi! Lòng chết rồi! Thần hồn tán loạn rồi! Nói năng rối bét rồi! Vào chùa thấy mặt Pháp Thông, liền phát cáu ngay: “Nếu mà thu xếp không xong, thì tôi đây oán sư ông suốt đời!” Nghe câu ấy, Pháp Thông phải sửng sốt cả người! Vì sao? Vì cậu Trương chưa hề nói đến chuyện xin thuê phòng thì Pháp Thông còn chưa biết thu xếp là chuyện gì nữa. Nhưng cậu Trương chưa nói chuyện thuê phòng, mà đã phát cáu nói ra câu “thu xếp không xong” đó, là vì câu đó là câu suốt một đêm miệng hỏi lòng, lòng hỏi miệng đã có hàng trăm, nghìn, muôn lượt, cậu cũng chẳng cần người khác hiểu hay không hiểu nữa! Chỉ có hai câu mở đầu ấy mà vẽ được hết cả thần tình cậu Trương suốt đêm không ngủ, ta đọc thấy như hiển hiện ở trên tờ giấy! Cái hay của cách viết được trước chỗ chưa viết, tài tình là thế! Lối đó chỉ trong tả Truyện là thường có dùng… Than ôi! Câu chuyện văn chương, thông được với tạo hoá! Trong đời này chẳng thiếu gì tay tài tử, tôi biết các bạn ở ngoài nghìn dặm, muôn dặm, tất tưới rượu xuống đất, gọi vọng Thánh Thán mà rằng: Anh nói phải đấy! Anh nói phải đấy! Vậy ngoài nghìn dặm, muôn dặm, Thánh Thán cũng tưới rượu xuống đất, gọi vọng các bạn tài tử mà rằng: Các anh là những người có thể viết được hạng văn suýt soát với vở Mái Tây!Trở lên là cả một đoạn văn ở trước câu “ví bằng thu xếp không xong” mà tác giả cố ý giấu đi, Thánh Thán xin viết hộ ra đây để tỏ rằng câu “ví bằng thu xếp không xong” thần hiệu đến như thế. Ta thử nghĩ hai câu “ví bằng…”, “ví bằng”… chỉ gọn lỏn có mười bốn chữ, mà trong lại chứa một đoạn văn dài như vậy, có lạ tuyệt không?
Mua bản dịch trọn vở Tây Sương Ký: 150.000đ
Call/Zalo: 0968017897