Giang Hiếu
Người Eskimo không gọi mình là… Eskimo. Không chỉ một lần trong lịch sử nhân loại, các nhà thám hiểm biết về một sắc dân này – họ qua những bộ lạc sống gần đấy (đôi khi là những bộ lạc thù nghịch), ghi lại tên gọi của dân tộc đó (thường rất thiếu thân thiện), khiến dân tộc ấy phải mang cái tên người ta áp đặt cho mình trên bản đồ thế giới. Theo tiếng của thổ dân da đỏ Agonkini, từ “Eskimo” có nghĩa là “Những kẻ ăn cá sống”, một thói quen của sắc dân này đã gây ấn tượng mạnh và khắc vào trí nhớ của người da đỏ. Các truyền thuyết sau đấy đều nói về bọn “ăn cá sống hiếu chiến cùng sự dã man của chúng”… Chưa bao giờ và chưa ở đâu có thấy bằng chứng về những kẻ ngụ giữa rừng sâu bị người sống ngoài vòng cực tấn công cả mà thường là ngược lại, nhưng khi đó chính dân Eskimo là những đối thủ lợi hại. Đó là nguyên nhân khiến định nghĩa “Eskimo” không hẳn đúng. Họ tự gọi là “Inuit”, nghĩa là “Những con người thực sự”. Trong đó không chứa đầu óc dân tộc cục bộ nào hết, một đại từ danh xưng mà bất cứ sắc dân nào trên địa cầu cũng đều có thể tự gọi mình – qua những từ có xuất xứ từ “con người thật – bằng xương bằng thịt”.
Ngoài ra, dân Inuit còn cho rằng, “người thực sự người” phải sống trong những điều kiện xứng đáng tồn tại: ven bờ Bắc Băng Dương và trong vùng cực Bắc quả đất. Những cánh rừng phía Nam luôn làm họ sợ: Với bóng tối quỷ quái, nơi cây cối đan chen che lấp tầm nhìn cùng sự nguy hiểm rình rập từng bước – khác hẳn ngoài bình địa ngút ngàn băng giá. Thật ít người có cách nghĩ như họ, còn các nhà khoa học thì gọi dân Eskimo là những người “sống trong điều kiện thử nghiệm”. Người Inuit đã vận dụng bao trí lực cùng óc sáng tạo thông minh không chỉ để tồn tại mà còn tạo ra một nền văn minh duy nhất, vượt lên tất cả mọi trở ngại của điều kiện sống cực kỳ gian khó. Trong tất cả những điều có liên quan mật thiết đến cuộc sống (như nhà cửa, thức ăn, áo quần, câu trúc xã hội) đều được họ cân nhắc và thử nghiệm qua nhiều thế kỷ. Nhiều nhà thám hiểm gạo cội thường dày công mô tả tỉ mỉ về những bộ trang phục kỳ lạ bằng da của các sắc dân phương Bắc. Rồi những ngôi nhà “ẩn” trong băng, và những cô xe trượt do chó kéo.
Người từ nơi khác đến thường mặc những bộ quần áo đặc biệt chuyên dành cho công tác thám hiểm và sống trọng những lều bạt tinh xảo giữa các điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt của cực Bắc. Giới thám hiểm yên tâm ngủ cực trong những lều bạt có dây kéo kín đáo và ấm cúng, sáng dậy không thể nào kéo ra được sợi dây kéo cực chắc biểu tượng của nền văn minh tân kỳ. Sợi dây kéo dài và chắc chắn đã bị bằng giá tới độ trơ lì, bắt buộc phải dùng dao rạch lều – là cách duy nhất để thoát ra được. Các nhà thám hiểm bước ra ngoài trời, nhưng lều thì không dùng được nữa. Trường hợp nêu trên đã xảy ra với nhà thám hiểm người Đan Mạch nổi tiếng Sand Rasmussen. Ông là người Âu châu đầu tiên học cách làm “nhà – tuyết” như dân bản xứ. Từ đó, các nhà thám hiểm sau Rasmussen đều áp dụng cách trú ẩn bão tuyết trong những điều kiện tương tự như người Eskimo – với các ngôi nhà do băng tạo nên.
Nhưng bản thân dân Eskimo vẫn thích ngủ trong những căn lều rộng rãi khâu bằng da hươu hơn, cho dù cũ rách. Bởi, với những kiểu “nhà băng – tuyết” mà họ kêu là “Igloo” thì chỉ dùng để ngủ, còn mọi việc nấu nướng đều phải tiến hành ngoài trời – nếu không sẽ chết ngạt vì khói không thể thoát qua băng. Khi nhiệt độ xuống tới âm 50-60°C, người Eskimo luôn sống giữa những ngôi nhà Igloo, với diện tích khiến chiếc máy kéo có thể chui vô lọt. Giới thám hiểm gạo cội (vốn biết cá tính thận trọng của dân Eskimo) thường rất đỗi ngạc nhiên bởi lỗi “trú ẩn” của họ quá đơn giản và… buồn cười (!) Nhưng chính S.Rasmussen lại tìm ra điều cốt lõi: cư dân cực Bắc mang nhà của mình ngay trên lưng: đó chính là quần áo của họ. Rasmussen cân trang phục của mình: 8kg. Sau đó ông cân đồ của người Eskimo: chỉ 2,1 ký! Ai có đi bộ hàng chục cây số giữa điều kiện Cực Bắc mới thấu hiểu sự quá tải của một cân hành lý thừa. Dân Eskimo không chỉ mặc một mà tới hai bộ quần áo: ngoài và trong, bộ nào cũng được làm bằng da.
Trọng lượng giáp trụ của hiệp sĩ châu Âu Trung Cổ
Thuyết hiện sinh, chủ nghĩa phi lý và thuyết hư vô
Những sinh vật dưới đáy đại dương
“Ảo tưởng tần số” là gì?
Áo ngoài liền mũ giống như người từng tham gia cuộc Thập từ chinh thuở trước vậy. Bên trong là chiếc sơ mi da dài tay. Bên dưới là cặp quần da. Chân đi tất da xỏ trong ủng da cao tới gần đầu gối. Áo khoác và sơ mi không dính sát vào nhau, mà luôn có một khoảng hở nhất định tạo thành hệ thống điều hòa tuyệt vời, bảo đảm một thân nhiệt không đổi bất chấp mọi tác động của băng giá bên ngoài. Cả hai bộ quần áo đều được thiết kế tiện lợi nhất cho việc di chuyển, đồng thời có thể yên tâm mặc chúng ngủ ngoài trời qua đêm. Trong mùa hè họ cởi bỏ bộ ngoài. Mùa hè cực Bắc đâu có nóng, và lớp da của quần áo trong là thứ phòng tránh muỗi cũng như các loại côn trùng khác một cách tốt nhất. Vào đầu mùa hè năm 1972, hai người thợ săn – hai anh em Hans và lokun Grenvald – chợt phát hiện ra ngôi mộ cổ trong làng Kilacisok ở bờ tây đảo Greenland đã bị bỏ hoang từ lâu. Sự hanh khô cùng sự điều hòa không đổi giữa hai lần phục sức đã giữ nguyên hình dạng thân thể của một phụ nữ và một đứa trẻ được chôn cách đây 5 thế kỷ. Những bộ quần áo da đã đóng vai trò chủ yếu trong khám phá gây kinh ngạc này, được hàng chục các nhà bác học dày công nghiên cứu trong nhiều năm sau. Họ đã tìm ra các chứng bệnh mà những người sống ở Greenland thời cổ mắc phải, cũng như các thức ăn mà họ đã dùng. Đứa bé mới được 6 tháng tuổi. Còn kiểu quần áo thời đó hầu như không hề thay đổi cho đến tận ngày nay, cho dù đã qua cả 500 năm.
Khám phá cho thấy tính nhất quán trong nền văn hóa của người Inuit trên toàn bộ lãnh thổ rộng lớn ở khắp vùng cực Bắc. Chính nhờ những bộ trang phục tiện lợi – hữu hiệu đó mà sắc dân Eskimo vẫn tồn tại được qua mọi khắc nghiệt của khí hậu Bắc Cực, được cha ông họ sáng tạo ra từ xa xưa để thích ứng với mỗi trường sống.
Sắc dân Inuit ngày một ít đi, cũng như các đàn hươu (mà họ gọi là “Tuctu”) và hải cẩu ven biển Bắc cũng vậy… Thổ ngữ Inuit ngày càng mai một, lùi bước trước Anh ngữ – thứ tiếng mà cha ông họ chỉ biết một vài từ qua cách gọi phân biệt các loại băng tuyết theo yêu cầu của các nhà thám hiểm đến từ vương quốc Anh.
Những người lên được tới điểm tận cùng của vòng cực, thường cho nơi đây – điểm cực Bắc – là chỗ làm việc chứ không thể sống được. Không ai trong số họ nghĩ rằng sẽ ở hẳn lại đây, giữa mênh mông băng giá này. Nhưng Cực Bắc đối với dân Inuit lại là “đất nước của những con người thực sự”, hay là “chốn duy nhất xứng đáng sống cho một kiếp người!” – như nguyên văn lời một thủ lĩnh bộ tộc Eskimo từng quả quyết.
(Theo National Geographic)