Kiến Thức

Thái độ tâm linh của đạo Phật

Thấy và thấy đúng, đó là ý nghĩa giản dị và phức tạp của đạo Phật. Thấy và thấy đúng, đó là con đường của tất cả mọi con đường. Đạo Phật mở mắt chúng ta để thấy.

thai do tam linh dao phat
Đăng ngày:

Kính thư quý vị

Giữa thời thế điêu linh này, sự hiện diện của quí vị trong buổi nói chuyện hôm nay đã nói lên ý thức mở rộng của quí vị trước một đề tài mà có thể có người cho rằng không mấy hấp dẫn lắm. Trước những tin đồn dồn dập của chính trước quốc tế và chiến sự Việt Nam, trước những biến thiên dữ dội của đời sống xã hội thời lạn, một đề tài nói chuyện nhan đề “Thái độ tâm linh của đạo Phật” có tính cách không được thiết thực cho lắm và dễ trở thành một đề tài trí thức thông thường của đời sống Đại Học hoặc cũng dễ trở thành một bài thuyết pháp nặng mùi tín điều tôn giáo mà người nói chỉ là người truyền đạo đứng trên cao nhìn xuống cuộc đời dưới kia.

Không phải thế. Chúng tôi không nghĩ như vậy. Nơi diễn đàn hôm nay, chúng tôi sẽ cố gắng trình bày vài ba điểm cần thiết để đánh tan những ngộ nhận có thể có được của người xa lạ với tư tướng chính yếu của  đạo Phật. Trước hết, chúng tôi xin vào đề ngay rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo, dù nghĩa “tôn giáo” hiểu theo truyền thống Tây phương hay Đông phương. Nói đến “tôn giáo” là nói đến “tín ngưỡng”, “giáo hội”, “giáo quyền”, “thần quyền”, “thần khải” v.v. Đạo Phật gồm có đủ những điều vừa kể, nhưng điều quan trọng nhất mà tất cả chúng ta cần phải lưu tâm: những điều vừa kể không làm đạo Phật trở thành đạo Phật, mà chỉ là những hình thức tất yếu xuất phát từ sự thoái hóa tinh thần của những người tự nhận là theo đạo Phật. Đạo Phật không phải là “tôn giáo” mà cũng không phải là “triết lý” hay “triết học”. Tư tưởng triết lý của đạo Phật chỉ là hậu quả tất yếu của sự sinh thành biện chứng trong sinh hoạt tâm linh của người theo đạo Phật.

Người ta thường hay nhấn mạnh đến khía cạnh thực tế, thực tiễn của đạo Phật trước những vấn đề quan trọng của đời sống; vì thế có người cũng đã từng cho rằng đạo Phật là một chủ nghĩa thực nghiệm, một thứ positivisme gần gần như Auguste Comte, một thứ empirisme hay penomenism (hiện tượng học) gần gần như David Hume, một thứ pragmatisme gần gần như William James. Rồi cũng có người đem so sánh Phật giáo với những hệ thống triết lý đi ngược lại với những thứ triết lý duy thực, duy nghiệm: họ nói Phật giáo gần gần với triết lý hiện sinh của Jean-Paul Sartre, gần gần với phương pháp trị liệu của tâm phân học hiện đạo theo điệu Carl Jung hay Erich Fromm v.v. Nói tóm lại thì họ đã mang đến đạo Phật những nhãn hiệu hoàn toàn mâu thuẫn đối nghịch nhau và hoàn toàn xa lạ với tinh túy của đạo Phật.

Tất cả những sự việc lạ lùng trên chỉ nói lên sự ngộ nhận ngay từ căn bản của những người có thiện chí đi đến với đạo Phật. Sự ngộ nhận này xuất phát từ một thái độ sai lầm của người muốn tìm hiểu đạo Phật, dù người muốn tìm hiểu ấy có thiện chí hay thiếu thiện chí, dù đứng bên trong truyền thông Phật giáo hay đứng ngoài. Sự ngộ nhận ấy xuất phát từ một sự ngộ nhận thái độ. Thái độ của người tìm hiểu đã sai lầm ngay nền tảng, vì thế đạo Phật chỉ là một đề tài cho sự hiếu kỳ tri thức và hình thức của đạo Phật lại trở thành quan trọng hơn tinh thần sống động của đạo Phật: Người ta chỉ tìm hiểu đạo Phật để so sánh, để thỏa mãn óc hiếu kỳ, để khai triển trí thức, để ca tụng hoặc chống đối, để nhận là của mình hay không phải của mình; người ta không nhìn đạo Phật như là đạo Phật, mà lại nhìn đạo Phật như là tôn giáo vô thần hoặc hữu thần, như là triết lý duy thực hoặc duy tâm, như là tín ngưỡng hoặc tín điều.

Thế nào là nhìn đạo Phật như là đạo Phật?

Đạo Phật như thế nào thì mình là như là thế. Chữ kinh Phật thường thường mở đầu là: như thị ngã văn. Như thị ngã văn có nghĩa là tôi nghe như vậy. Đó là lời đức Phật dạy ông Ưu Ba Ly và A Nan phải mở đầu các kinh bằng bốn tiếng ấy (Xem Trí Độ Luận). Như thị ngã văn có nghĩa là tôi nghe như thế nào thì tôi nghe đúng như vậy, tôi nghe đạo Phật như là đạo Phật. Nghe đạo Phật như là đạo Phật cũng đồng nghĩa với việc nhìn thấy đạo Phật như là đạo Phật. Nghe đạo Phật như là đạo Phật. Muốn nhìn thấy cho đúng đắn và trung thực thì phải có một thái độ đúng đắn và trung thực. Đứng giữa cuộc đời, mỗi người đều có một thái độ nào đó. Thái độ cũng đồng nghĩa với quan điểm. Quan điểm là điểm, chỗ mình thấy. “Quan” là thấy, nhìn thấy, dịch lại chữ Pali chính là dassana. Biết nhìn thấy là điều quan trọng trong đời sống. Đạo Phật thường hay nhấn mạnh đến sự nhìn thấy: chúng ta thường thấy những chữ kiến, quan (quán) rải rác trong tất cả Kinh luận Phật giáo. Chánh kiến (Sama ditthia) là con đường đầu tiên, con đường thứ nhất trong tám con đường chân chính (bát chính đạo), tất cả ý nghĩa của Thiền tông xoay về nơi hai chữ Kiến Tánh, tất cả ý nghĩa của tất cả những tông phái Phật giáo có thể thu gọn trong câu: “khiến tà kiến thành chơn chánh.” (mà chữ Pali gọi là Ditthijjukamma).

Thấy và thấy đúng, đó là ý nghĩa giản dị và phức tạp của đạo Phật. Thấy và thấy đúng, đó là con đường của tất cả mọi con đường. Đạo Phật mở mắt chúng ta để thấy. Thấy sự vật như là sự vậy, thấy sự vật đúng với sự thật. Kinh luận Pali gọi sự thấy ấy là vippassana (quán): Thiền định Bhàvanà có hai loại: Samatha (chỉ) vippassanà (quán). Nhờ tu samatha mà chứng được Abhinnà (thắng trí quán thông), còn nhờ vippassanà (quán) mà chứng được thánh quả.

Điểm thứ nhất mà khi đề cập tới thái độ tâm linh của đạo Phật, chúng tôi cần phải lưu ý quý vị là sự quan trọng của việc thấy trong đời sống nội tâm và ngoại giới của chúng ta. Chúng ta có mặt, nhưng chúng ta vẫn không thấy, và nếu có thấy chăng chỉ là thấy sai. Chữ nhà Phật gọi là tà kiến (Micchaditthi ditthigata). Tà kiến là tai họa lớn nhất trong đời sống. Tà kiến còn nguy hiểm và khó trị hơn là chiến tranh, đói rách và thiên tai. Tà kiến khiến con người trở thành một con thú bần tiện nhất trên đời. Kiên điên đảo là thấy sự vật đảo ngược lại, chấp hư làm thực, chấp vọng bỏ chân. Kiến phược, kiến thủ kiến, (chữ Phạn: Distipàràmàrsa), Kiến chướng, Kiến kiến, Kiến võng, Kiến trọc (Drsti-kasàya), Kiến ái, Kiến tư, Kiến độc là những chữ thông dụng trong kinh luận đạo Phật để chỉ sự thấy sai của con người, để chỉ sự nô lệ của ý thức, sự sa đọa của kiến thức, sự sa lấy của con người trên  con đường trở về Tự do An lạc.

Hai tông phái quan trọng trong những tông phái quan trọng nhất của Phật giáo như Tâm luận tông và Thiền tông cũng đưa con người trở về sự thấy chân chính: yếu chỉ của Tam luận tông (cũng gọi là trung quán luận, Màdhya mika) cũng xoay quanh trong việc phá bỏ tất cả những sự thấy sai lầm, những Kiến (drsti) phá bỏ những giáo thuyết tín điều (drsti-vàda) những thứ ngã kiến (àtma-drsti satkàya-drsti) vô kiến (vibhava-drsti), hữu kiến (bhava-drsti) để thể nhập Chân Không (sùnyatà). Yếu chỉ của Thiền tông đã được cô động trong câu Kiến tánh thành Phật nghĩa là thấy tự tánh mình vốn vẫn thanh tịnh. Kiến tánh cũng đồng nghĩa với kiến phật. Trong Pàli Abhidhamma, có nói đến Dhammacakkhu (Pháp nhãn). Nói đến quả của sắc giới thiện nghiệp, hành giả có niệm (sàti) mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác thì được sanh vào cõi Thiện kiến thiên (Suddassa). Chữ Thiện Kiến thiên ở đây mang ý nghĩa tượng trưng cho kết quả của sự thấy chân chính.

Nơi đây, không phải là chỗ để chúng tôi trưng dẫn kinh điển và một mớ thuật ngữ Phật giáo bằng Phạn ngữ, Pàli và Hán ngữ. Chúng tôi chỉ muốn trình bày sơ lược đôi thí dụ cụ thể để cho quý vị thấy rằng vai trò quan trọng của Pháp Nhãn (Dhamma Cakkhu) trong thái độ tâm linh của đạo Phật. Ngày xưa, những vị thiền sư cũng thường gọi đạo Phật là chính pháp nhãn tạng. Như việc tổ sư trao truyền chánh pháp nhãn tạng lại cho đệ tử. Thấy đúng nghĩa là thấy thì có nghĩa là thấy đúng sự thật, thấy sự thật như là sự thật. Tất cả ý nghĩa của thái độ tâm linh trong đạo Phật có thể tóm gọn vào việc thấy. Trong tư tưởng hiện đạo ở Tây phương, không ai mà không nghe đến tên tuổi của linh mục Pierre Teilhard de Chardin, một nhà bác học và một tư tưởng gia nổi danh khắp thế giói. Trong cuốn Le Phenomène Humain, Teilhard de Chardin cũng thường đặt tất cả sự quan trọng vào động từ voir. Đối với Teilhard de Chardin thì tất cả đời sống chỉ thu gọn vào việc thấy: Voir. On pourrait dire que toute la vie est là” (xem Le Phenomène Humain, Éditions du Seuil, 1957, p.25) Teilhard de Chardin lại còn nói mạnh hơn Voir ou périr (cf. op. cit. p. 25). Sự thống nhất nhân loại chỉ có thể được hình thành nhờ sự khai triển rộng lớn phạm vi ý thức của con người, mà mở rộng ý thức chính là khai mở thị quan (Teilhard de Chardin: L’Unité ne grandit que supportée par un accrois-sement de conscience, c’est à dire de vision”; cf. op. cit. p. 25). Các vũ trụ hội tụ (;’univers convergent, cf. op. cit. p.344) mà Teilhard de Chardin muốn đưa tới thì cũng chỉ là sự đồng nhất giữa khách thể và chủ thể trong việc biến chuyển hồ tương để đưa đến kiến tri toàn diện: “con Người tự tìm lại mình và tự nhìn mình trong tất cả những gì mình thấy.

Thái độ tâm linh của đạo Phật bắt đầu bằng chánh kiến. Chánh kiến là sự thấy mọi sự đúng như thật, và Tứ Diệu Đế giải thích sự thấy như thấy ấy. Chánh kiến tức là thấy hiểu Tứ Diệu Đế: đó là thấy được Thực tại tối hậu. Bất cứ người nào tự nhận là Phật tử thì ít nhất cũng có một kiến thức sơ đẳng, thu gọn trong tứ niệm xứ:

  1. Quán thân bất tịnh;
  2. Quán thọ thị khổ;
  3. Quán tâm vô thường;
  4. Quán pháp vô ngã

Chữ “quán” (thấy) nằm trong “tứ niệm xứ”; “tứ niệm xứ” mở ra “tứ vô lượng tâm”, con đường dứt trừ dục ái, sân hận, nhiễm ô và đạt đến tự tại.

Đó là nền tảng sơ đẳng cho thái độ của đạo Phật. Gọi là thái độ tâm linh, vì thái độ ấy đưa con người đến đời sống tâm linh. Một điểm quan trọng chúng tôi thấy cần phải nêu lên là “tâm linh” ở đây không có nghĩa như chữ La tinh Spiritus, animus, anima, ratio, transcendens v.v. như trong ý nghĩa của truyền thống kinh viện Trung cổ ở Tây phương. Ở đây, Tâm linh được hiểu theo nghĩa “Tâm” trong chữ “Citta” của Kinh điển Phật giáo: đạo Phật không hề tách rời phân chia Tâm (citta) và Sắc (Rupa), vì cả hai đều liên đới dính líu tương quan. Đó là sự khác nhau căn bản giữa chữ Tâm trong đạo Phật và chữ Tâm trong những hệ thống tôn giáo triết lý Tây phương. Tâm lý học Phật giáo như môn học Abhidhamma không phải là học về tâm theo nghĩa psyché của Hy Lạp mà lại học sắc giới tâm, vô sắc giới tâm, siêu thế tâm, tức là những vấn đề vượt ra ngoài sự hiểu biết hiện tại nông cạn và có giới hạn của chúng ta.

Điểm quan trọng khác trong đạo Phật mà chúng ta nên lưu tâm đặc biệt là kinh nghiệm tâm linh (tạm dịch lại chữ Pháp cho dễ hiểu là réalisation métaphysique). Tất cả những tông phái Phật giáo đều hướng chúng ta đến cứu cánh duy nhất là kinh nghiệm tâm linh; nói khác đi là không phải chỉ lý thuyết thôi mà phải sống theo lý thuyết bằng thực tế và kinh nghiệm, trí đức song tu. Đạo Phật không phải là hình thức giáo điều mà là hướng dẫn trên một phương hướng phương pháp, đưa đến sự tự chứng cá nhân; đạo Phật không chối bỏ siêu hình, nếu siêu hình được khám phá bằng con đường kinh nghiệm cá nhân, đạo Phật chuyển hóa siêu hình thành kinh nghiệm, chuyển hóa kinh nghiệm thành thái độ, gọi tắt là thái độ tâm linh. Thái độ tâm linh ấy là tu quán, tu chính sắc giới tâm và vô sắc giới tâm với những phương pháp thiền định của sắc giới tâm và vô sắc giới tâm. Mỗi đối tượng có một phương pháp riêng và mỗi phương pháp đều có tính cách uyên chuyển, tùy cơ, tùy thời.

Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính, nghĩa là không dính líu gì với đời sống này. Thái độ tâm linh của đạo Phật không phát sinh từ ý thức về một đấng Phạm Thiên, một Thực thể tối cao, siêu việt. Ngược lại, thái độ tâm linh của đạo Phật nằm trong con người, do con người, bởi con người và cho con người. Nói như thế, không có nghĩa đạo Phật chỉ nằm trong bình diện tại thể tính, nói như danh từ thần học Thiên Chúa giáo. Không phải thế, nhưng ý niệm như siêu việt tính, tại thể tính không thể áp dụng vào đạo Phật; đạo Phật đứng bên ngoài những ý niệm có tính cách phân biệt của ngữ thần học.

Tỳ kheo Thích Minh Châu

5/5 - (2 votes)

BÀI LIÊN QUAN