Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ (Emancipation Proclamation) được tổng thống Hoa kỳ Abraham Lincoln đề xuất trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, tuyên bố trả tự do cho tất cả nô lệ thuộc Liên minh miền Nam Hoa Kỳ chưa thuộc kiểm soát của phe Liên bang miền Bắc, công bố ngày 1/1/1863. Đây là một văn kiện nổi bật trong lịch sử Hoa Kỳ, đánh dấu sự chấm dứt chế độ nô lệ vốn rất phổ biến tại quốc gia này, và phần lớn trên thế giới thời ấy. Trong bài viết này mời các bạn tìm hiểu đôi chút về sự ra đời của bản tuyên ngôn này.
Bài viết của Long Phan trên Group Lịch Sử Thế Giới Hiện Đại.
Phần lớn nội dung bài này dựa vào hai tác phẩm của tiến sĩ Doris Kearns Goodwin sau đây:
1. Doris Kearns Goodwin, Leadership: In Turbulent Times, September 18, 2018.
2. Doris Kearns Goodwin, Team of Rivals: The Political Genius of Abraham Lincoln, Simon & Schuster, September 26, 2006.
Về Abraham Lincoln
Lincoln sinh vào ngày 12/2/1809 tại Quận Hardin ở Kentucky. Gia đình của ông thường đi lễ tại nhà thờ Separate Baptists, nơi có các tiêu chuẩn đạo đức nghiêm túc và chống lại việc nghiện rượu, khiêu vũ, và nô lệ. Gia đình của ông đã đi về hướng bắc vượt qua Sông Ohio để tới Indiana, nơi mà nô lệ không được cho phép, và lập nghiệp tại Perry, hiện nay thuộc Quận Spencer thuộc tiểu bang Indiana. Lincoln sau đó nói rằng cuộc dời chỗ ở này là một phần vì vấn đề nô lệ nhưng chính yếu là vì nhiều khó khăn về quyền sở hữu đất đai.
Khi còn trẻ, ông đi về hướng tây để tới tiểu bang tự do Illinois. Vào ngày 27/1/1838, bài diễn văn Lyceum của Abraham Lincoln đã đọc cho các học sinh trung học đệ nhất cấp của Springfield tại Illinois, và trong bài diễn văn ông đã nói đến chế độ nô lệ. Trước đó 7 tuần lễ, một đám đông người tại Illinois đã giết chết Ikijah Lovejoy, một mục sư giáo phái Presbyterian và là chủ bút của một tờ báo có quan điểm chống chế độ nô lệ mạnh mẽ. Tâm trạng của người dân Illinois khi đám đông giận dữ giết chết Lovejoy là ủng hộ chế độ nô lệ, nhưng không phải chỉ có tại Illinois. Các nhà lập pháp tiểu bang của Connecticut và New York vào thập niên 1830 đã thông qua nhiều nghị quyết bắt đầu rằng chế độ nô lệ được chấp nhận trong Hiến Pháp Hoa Kỳ và rằng không có tiểu bang nào có quyền để can thiệp. Chính Lincoln đã là một trong 6 Dân Biểu của Hạ Viện tại Illinois đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết nói rằng quyền sở hữu nô lệ là thiêng liêng, chúng tôi không đồng ý về việc hình thành các xã hội bãi bỏ chế độ nô lệ. Chính Quyền Trung Ương không thể bãi bỏ chế độ nô lệ tại Thủ Đô. 6 tuần lễ sau đó, ông và Dân Biểu Dan Stone đã làm đơn chống lại việc thông qua của nghị quyết – một công cụ được sử dụng rất hiếm để đệ trình sự bất mãn mạnh mẽ,” theo Paul Simon trong bài viết Essay on Lincoln’s Lyceum Speech.
Vào năm 1842, Lincoln kết hôn với Mary Todd tại Springfield, Illinois. Bà là con gái của một chủ nô lệ tại Kentucky, nhưng bà không bao giờ làm chủ các nô lệ và đã chống lại chế độ nô lệ khi trưởng thành. Lincoln, nhà lãnh đạo có nhiều liên hệ với sự chấm dứt chủ nghĩa nô lệ tại Hoa Kỳ, trở thành nổi bật trên toàn quốc vào thập niên 1850, theo sau sự ra đời của Đảng Cộng Hòa, có lập trường chính thức là rằng tự do là tự nhiên, điều kiện tự nhiên của tất cả các khu vực dưới chủ quyền trực tiếp của Hiến Pháp, trong khi chế độ nô lệ là ngoại lệ và từng khu vực. Ban đầu, là thành viên của Đảng Whig tại Quốc Hội Illinois, Lincoln đã công bố bản viết tay chống lại việc thông qua một nghị quyết của Quốc Hội này nói rằng chế độ nô lệ không nên bị bãi bỏ tại Thủ Đô. Vào năm 1841, ông đã thắng một vụ kiện (Bailey v. Cromwell), đại diện cho một phụ nữ da đen, Nance Legins-Costley, và những người con của bà là những người cho rằng bà đã được tự do và không thể bị bán như một nô lệ.
Tìm hiểu lịch sử Mỹ:
Tổng thống Abraham Lincoln và nước Mỹ chia rẽ
Diễn biến Nội Chiến Hoa Kỳ những ngày đầu
Trận Bull Run lần thứ nhất và thấy bại cay đắng của quân miền bắc
Quan điểm về nô lệ của Lincoln
Một trong những thí dụ cụ thể sớm nhất về quan điểm được viết ra của Lincoln về chủ nghĩa nô lệ đến từ một lá thư Lincoln đã viết vào năm 1845 cho người bạn của ông là Williamson Durley, liên quan đến sự sáp nhập của Texas. Trong lá thư đó, Lincoln nói rằng ông không đứng trên lập trường về việc sáp nhập, nhưng ông nói thêm: Có thể đúng, ở mức độ nào đó, rằng với sự sáp nhập, một số người nô lệ có thể được gửi tới Texas và tiếp tục làm nô lệ, rằng trái lại có thể được giải phóng. Cho dù ở mức độ mà điều này có thể đúng, tôi nghĩ việc sáp nhập là một điều ác. Tôi coi đó là trách nhiệm tối quan trọng đối với chúng ta tại những tiểu bang tự do, vì Liên Minh của các tiểu bang, và có lẽ để chính nó tự do (dù nó có vẻ nghịch lý) để chế độ nô lệ tại những tiểu bang khác; trong khi mặt khác, tôi giữ lập trường rõ ràng bình đẳng, mà chúng ta không bao giờ thích hợp trực tiếp hay gián tiếp, với việc ngăn chận chế độ nô lệ khỏi cái chết tự nhiên – để tìm những nơi khác cho nó sống, khi nó có thể không còn hiện hữu được nữa tại chỗ cũ. Quan điểm này, rằng chế độ nô lệ sẽ bị cắt bỏ hiệu quả nhất bằng việc ngăn chận sự mở rộng của nó hơn là trực tiếp bãi bỏ, là nhất quán đối với Lincoln qua suốt sự nghiệp chính trị của ông dẫn tới việc ông đắc cử Tổng Thống vào năm 1860.
Vào khoảng năm 1848, Lincoln hợp tác với Dân Biểu vận động bãi bỏ chế độ nô lệ Joshua R. Giddings viết dự luật bãi bỏ chế độ nô lệ tại Thủ Đô với sự bồi thường đối với những người chủ nô lệ, cấm bắt nô lệ chạy trốn, và bỏ phiếu phổ thông về vấn đề này, theo Eric Foner trong tác phẩm xuất bản năm 2010 The Fiery Trial: Abraham Lincoln and American Slavery. Tuy nhiên, chế độ nô lệ tại Thủ Đô đã không chấm dứt cho đến năm 1862, khi Lincoln làm tổng thống và không còn thượng nghị sĩ miền nam.
Vào ngày 16/10/1854, trong bài diễn văn Peoria Speech của ông, Lincoln tuyên bố chống lại chế độ nô lệ, ông đã lập lại trong lộ trình đi tới tổng thống của ông. Bằng giọng Kentucky của ông, với âm vang hùng hỗ, ông nói rằng Đạo Luật Kansas có một sự dửng dưng được tuyên bố, nhưng khi tôi phải suy nghĩ, lòng nhiệt huyết thực sự che đậy đối với sự lan rộng của chủ nghĩa nô lệ. Tôi không thể làm gì ngoài việc thù ghét nó. Tôi thù ghét nó bởi vì sự bất công khủng khiếp của chính chế độ nô lệ. Tôi ghét nó bởi vì nó tướt đi biểu tượng cộng hòa của chúng ta về ảnh hưởng chính đáng của nó trên thế giới.
Năm 1857, phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ trong vụ Dred Scott kiện Sandford đã làm Lincoln kinh hãi. Chánh Thẩm Phán Roger B. Taney trong phán quyết viết rằng người da đen không phải là công dân và không có quyền nào từ Hiến Pháp. Trong khi tác giả của nó hy vọng rằng Dred Scott sẽ chấm dứt tất cả những tranh cãi về chủ nghĩa nô lệ để có lợi cho các chủ nô tại miền nam, phán quyết làm dậy lên thêm sự căm thù tại miền Bắc. Lincoln đã lên án nó như là sản phẩm của âm mưu để ủng hộ Quyền Lực Nô Lệ và tin rằng phán quyết của Dred Scott, kết hợp với Đạo Luật Kansas–Nebraska Act, làm cho chế độ nô lệ có khả năng lan rộng vào các tiểu bang tự do. Ông cho rằng phán quyết này không phù hợp với Tuyên Ngôn Độc Lập. Ông nói rằng trong khi các bậc tổ phụ đã không tin tất cả con người đều bình đẳng trong mọi khía cạnh, họ tin rằng tất cả mọi người đều bình đẳng “trong một số quyền bất khả tương nhượng, mà trong số đó là quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc, theo Harry V. Jaffa trong tác phẩm xuất bản năm 2000 A New Birth of Freedom: Abraham Lincoln and the Coming of the Civil War.
Sự hình thái quan điểm bãi bỏ nô lệ của Abraham Lincoln
Được ấn tượng bởi sự tăng cường của chủ nghĩa chống da đen, đặc biệt tại các tiểu bang nhà Indiana, Illinois, và Kentucky, Lincoln đã kết luận bởi vì những người da trắng không bao giờ cho phép người da đen sống tại Mỹ được bình đẳng, họ sẽ tốt hơn nếu tự nguyện di cư ra ngoài thuộc địa Hoa Kỳ, lý tưởng nhất là tại Trung Mỹ hay Vùng Caribbean. Ông có rất ít niềm tin vào chương trình Xã Hội Thuộc Địa Hóa Mỹ, mà mục đích là để thuộc địa hóa những người Mỹ da đen tại Liberia, tại bờ biển Miền Tây Phi Châu. Trong bài diễn văn tại Peoria, Illinois, Lincoln chỉ ra những khó khăn vô cùng của công tác như thế là một sự cản trở để tìm ra cách dễ dàng để nhanh chóng chấm dứt chể độ nô lệ. Trong một cuộc tranh luận vào tháng 8 năm 1858 ông nói rằng: Nếu tất cả quyền lực được trao cho tôi thì sự thôi thúc đầu tiên của tôi sẽ là trả tự do cho tất cả người nô lệ, và gửi họ về Liberia, – về quê hương của chính họ. Nhưng suy nghĩ trong khoảnh khắc thuyết phục tôi rằng bất cứ điều gì của sự hy vọng vào (như tôi nghĩ là có) đều có thể có trong điều này, trong đường dài, việc thực hiện đột ngột của nó là không thể, theo Paul Escott trong tác phẩm What Shall We Do with the Negro? được NXB Đại Học Virginia xuất bản vào năm 2009.
Vào năm 1855, Lincoln viết cho Joshua Speed, một người bạn và là một chủ nô lệ tại Kentucky: Bạn biết tôi không thích chế độ nô lệ; và bạn thừa nhận hoàn toàn sai lầm trườu tượng của nó. Tôi cũng thừa nhận quyền của bạn và trách nhiệm của tôi, theo hiến pháp, liên quan đến những nô lệ của bạn. Tôi thú nhận tôi ghét nhìn thấy những tạo vật nghèo bị săn lùng, và bị bắt, và bị mang trở lại những người loại ấy của họ, và những công việc không có tưởng thưởng; nhưng tôi phải cắn răng và im lặng. Khi lập quốc, chúng ta đã bắt đầu bằng việc tuyên bố rằng “tất cả mọi người đều được sinh ra bình đẳng.” Chúng ta hiện nay thực tế đọc nó tất cả mọi người đều được sinh ra bình đẳng, ngoại trừ người da đen.
Nhiều cảm xúc chống nô lệ công khai của Lincoln được bày tỏ trong 7 cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas vào năm 1858 để chống lại đối thủ của ông là Stephen Douglas, trong cuộc vận động tranh cử chức Thượng Nghị Sĩ Hoa kỳ bất thành của Lincoln. Douglas cổ võ chủ quyền phổ biến và chính quyền tự trị, mà sẽ giúp các công dân của lãnh thổ quyền để quyết định chế độ nô lệ có hợp pháp ở đó hay không. Douglas chỉ trích Lincoln là không kiên quyết, nói rằng ông ấy đã thay đôi thông điệp và lập trường về chế độ nô lệ và về quyền chính trị của những người da đen tự do để thu hút khán giả trước ông ấy, khi miền bắc Illinois thù ghét đối với chế độ nô lệ nhiều hơn miền nam Illinois. Lincoln nói rằng những người Da Đen có quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc trong cuộc tranh luận đầu tiên của Lincoln-Douglas.
Trong lá thư gửi cho Thượng Nghị Sĩ Lyman Trumbull vào ngày 10/12/1860, Lincoln viết rằng: Không có sự thỏa hiệp về vấn đề chế độ nô lệ,” theo Mario M. Cuomo và Harold Holzer trong tác phẩm xuất bản năm 1990 Lincoln on Democracy. Trong lá thư gửi cho John A. Gilmer của North Carolina vào ngày 15/12/1860, mà ngay sau đó đã được đăng lên báo, Lincoln viết rằng: chỉ có sự khác biệt cụ thể giữa Bắc và Nam mà bạn nghĩ chế độ nô lệ là đúng và phải được mở rộng; chúng tôi nghĩ nó là sai và phải được hạn chế. Lincoln lập lại tuyên bố này trong lá thư gửi cho Alexander H. Stephens của Georgia vào ngày 22/12/1860, theo Eric Foner trong tác phẩm The Fiery Trial: Abraham Lincoln and American Slavery. Vào ngày 15/12/1860, Thượng Nghị Sĩ John J. Crittenden của Kentucky đã đề xuất Thỏa Hiệp Crittenden, một loạt các tu chính hiến pháp nhằm mục đích dỗ ngọt các tiểu bang Liên Minh Miền Nam trong việc trở lại Liên Bang Miền Bắc. Tổng Thống đắc cử Lincoln đã bác bỏ Thỏa Hiệp Crittenden bởi vì nó sẽ cho phép sự mở rộng chế độ nô lệ.
Ban hành tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ
Vào cuối tuần tháng 7/1862, Lincoln đã triệu tập cuộc họp nội các lịch sử để công bố bản thảo Tuyên ngôn Giải phóng của mình. Trước đó nữa, vào tuần cuối của tháng 6/1862, cuộc nội chiến Hoa Kỳ lúc đó đang ở giai đoạn vô cùng gây cấn. Quân đội của tướng George McClellan thuộc Hiệp Chủng Quốc (Union) tấn công thủ đô của phía Liên bang (Confederacy) nhưng đã bị đẩy lùi tại Richmond. Bên Union phải rút lui. Cuộc tấn công này làm cho 16 ngàn lính bị chết, bị bắt hoặc bị thương. Sự kiện này làm cho Lincoln lo lắng, bởi vì lá bài cuối đã được sử dụng nhưng không hiệu quả. Lincoln nhận thấy đây là lúc ông cần thay đổi chiến lược/thuật. Khi quân đội Union rút về lại sông James (James River), Lincoln liền viếng thăm binh lính, nhất là những người bị thương tích, để nâng đỡ tinh thần của họ, và cũng để củng cố tinh thần của chính mình. Cuộc viếng thăm bất ngờ của Lincoln đã làm tăng tinh thần của binh lính ngay lập tức. Nhưng điều khác Lincoln mong muốn trong chuyến viếng thăm này là gặp gỡ binh lính, đặt câu hỏi và qua đó thu thập thông tin trực tiếp từ họ. Nhờ thế mà ông biết được cặn kẽ hơn về mối quan hệ giữa chiến tranh và vấn đề nô lệ. Ngay từ ban đầu, mặc dầu ông khinh ghét vấn đề nô lệ, mục tiêu hàng đầu của Lincoln lúc đó vẫn là duy trì sự thống nhất của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Lincoln thấu hiểu và cảm nhận sâu sắc về sự phức tạp khác nhau của người dân, kể cả vấn đề cho rằng nô lệ đã được Hiến pháp công nhận, nhất là những bang đã từng công nhận nó. Đây là hai thử thách lớn lao cho bất cứ một lãnh đạo nào.
Sau khi nói chuyện với lãnh đạo và binh lính bên phía quân sự, Lincoln mới nhận thức rõ ràng rằng bên phía Confederacy đã khai dụng nô lệ một cách tối đa cho mục tiêu chiến tranh của họ. Nô lệ được dùng để đào hầm, xây dựng thành trì kiên cố cho phía Confederacy. Họ được sử dụng để lái xe ngựa, nấu ăn, chạy bàn, và phụ tá bệnh viện. Trên mặt trận, họ sửa soạn cho các vấn đề nông nghiệp: trồng trọt, nâng cao mùa màng và thu nhặt bông gòn. Nô lệ cũng được dùng làm các việc duy trì nông trại và các hoạt động đồn điền. Các công việc của nô lệ giúp cho phía Confederacy sửdụng mọi lực lượng còn lại để chiến đấu. Theo nhận định của Lincoln thì nô lệ đã được dùng để làm sức mạnh cho bên kia. Câu hỏi Lincoln đặt ra là bên này cần phải quyết định làm gì với yếu tố này để nó phục vụ cho mình, hay hủy hoại mình! Nếu bên Confederacy bị tước đoạt nô lệ, miền Bắc lúc đó đang ở thế bất lợi, cho nên có thể thu được vị thế có lợi về quân sự, cần thiết cho thời điểm đó.
Lincoln nhìn ra được rằng giải phóng nô lệ có thể được xem là vấn đề quân sự tuyệt đối cần thiết cho sự cứu rỗi đối với Union. Giải phóng nô lệ, tuy mặt khác là vi hiến đối với phía Confederacy, nhưng có thể trở thành một hành động hợp pháp đối với phía Union. Lincoln phân tích rằng việc bảo vệ vấn đề nô lệ một cách hợp hiến có thể phản bác bằng quyền hiến định về chiến tranh của vị tổng tư lệnh, tức quyền tổng thống khi đất nước đang có chiến tranh. Tuy suy luận như thế, Lincoln vẫn e ngại việc tung vũ khí giải phóng như một nghị định quân sự một chiều. Trước đây, Lincoln đã từng cảnh báo các nhà luật sư trẻ trong lúc ông hành nghề luật về những mối nguy của những kẻ đội lốt bạo chúa, sẵn sàng ngụy biện cho các phương thức quá đà của mình. Sử dụng biện pháp này, Lincoln hiểu, là khá nguy hiểm, nhưng nó gần như là cách cuối cùng khi các biện pháp khác đã được áp dụng nhưng thất bại. Thật ra ông cũng đã tìm những phương thức khác. Trước đó bốn tháng, Lincoln gửi thông điệp đến quốc hội yêu cầu họ ủng hộ bốn tiểu bang ranh giới Missouri, Kentucky, Delaware và Maryland, nếu các tiểu bang này từ từ chấp nhận chính sách xóa bỏ nô lệ, thay vào đó họ sẽ được bồi thường 400 đô la mỗi nô lệ. Ông khẩn khoản yêu cầu các nhà lập pháp tại các tiểu bang đó chấp thuận đề nghị này. Nhưng họ vẫn từ chối, biện luận rằng làm như thế chỉ làm tăng thêm sự nổi loạn của các tiểu bang ly khai, kéo dài chứ không làm ngắn đi chiến tranh.
Với công việc rất bề bộn mỗi ngày của một tổng thống, Lincoln không còn nhiều thì giờ để tìm một giải pháp tối ưu. Ngoài các việc chính thức khi cánh cửa của nhà Trắng mở vào buổi sáng, Lincoln phải tiếp đón bao nhiêu quan khách cũng như những người muốn đến thăm Nhà Trắng. Ông gần như không còn bao nhiêu thì giờ để nghỉ ngơi, huống gì suy nghĩ đến các vấn đề phức tạp khác. Nhưng vì nhận thức rất rõ tầm quan trọng cho một giải pháp như thế, Lincoln đã tìm thời gian và nơi chốn để suy nghĩ. Lincoln tìm đến Nhà Lính (Soldiers’ Home) như một nơi trú ẩn an toàn để ông có thể tập trung suy nghĩ về các vấn đề phức tạp, nhất là vấn đề và giải pháp về nô lệ.
Thi hành và ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ
Việc gì đến cũng phải đến. Một tháng sau trận đánh thất bại tại Richmond, Lincoln đã triệu tập nội các của ông vào ngày 22/7/1862. Phía cấp tiến gồm Edwin Stanton và Salmon Chase ngồi bên phải của Lincoln. Phía bảo thủ Caleb Smith, Montgomery Blair và Edward Bates ngồi bên trái. Phía ôn hòa gồm Gideon Welles ngồi đàng trước và William Seward, ngồi trung tâm, và cũng là điểm tựa vây quanh Lincoln. Mọi người ngồi im lặng lắng nghe Lincoln đọc bản thảo Tuyên ngôn Giải phóng.
Vào ngày 22/8/1862 Lincoln đã phổ biến lá thư trả lời bài bình luận bởi Horace Greeley của báo New York Tribune, mà trong đó vị chủ bút này hỏi tại sao Lincoln vẫn chưa công bố tuyên ngôn giải phóng nô lệ, khi ông đã được trao thẩm quyền để làm bởi Đạo Luật Second Confiscation Act. Trong thư trả lời Lincoln nói rằng: Tôi muốn bảo vệ Liên Minh. Tôi muốn bảo vệ nó bằng cách ngắn nhất theo Hiến Pháp. Bao lâu mà thẩm quyền quốc gia có thể được duy trì, thì Liên Bang Miền Bắc sẽ là Liên Bang như nó là gần hơn.
Vào ngày 22/9/1862, Trận Chiến của Antientam đã giúp Lincoln chiến thắng mà ông cần để công bố Tuyên Ngôn Giải Phóng Nô Lệ. Trong trận chiến này, dù Liên Bang Miền Bắc bị tổn thất nặng nề hơn Liên Minh Miền Nam và Tướng McClellan đã cho phép binh sĩ của Tướng Robert E. Lee chạy thoát, các lực lượng Liên Bang Miền Bắc đã lấy lại Maryland bị Liên Minh Miền Nam xâm chiếm, đã loại khỏi vòng chiến hơn một phần tư quân đội của Tướng Lee. Theo sử gia chuyên về Nội Chiến James M. McPherson, Lincoln nói với các thành viên Nội Các rằng ông đã làm một giao ước với Thượng Đế, rằng nếu Liên Bang Miền Bắc đuổi Liên Minh Miền Nam ra khỏi Maryland, thì ông sẽ công bố Tuyên Ngôn Giải Phóng Nô Lệ.
Cuối cùng ông đi đến một câu văn mà đã thay đổi lịch sử Hoa Kỳ và nhân loại: Là Tổng tư lệnh của quân đội và hải quân của Hoa Kỳ, tôi tuyên bố rằng ngày đầu của tháng Giêng năm 1863, tất cả những ai bị giam cầm như nô lệ trong bất cứ tiểu bang nào mà trong đó quyền lực hiến pháp không được công nhận, tuân phục và duy trì một cách thực tế, thì từ đó, và mãi mãi về sau, có thể được tự do. Đây là lần đầu tiên Tổng thống Lincoln thắt chặt hai vấn đề Hiệp Chủng Quốc và nô lệ chung lại thành một sức lực duy nhất, mang tính chuyển hóa và đạo đức. Khoảng 3 triệu rưỡi người nô lệ, bao nhiêu đời sống ở phía Nam, được hứa hẹn tự do. Chỉ 80 chữ thôi, trong Tuyên ngôn Giải phóng này, có khả năng thay thế pháp luật về quyền sở hữu tài sản và nô lệ mà đã ngự trị tại quốc hội Hoa Kỳ, Hạ viện lẫn Thượng viện, ba phần tư thế kỷ qua. Cũng cần ghi nhận rằng nghị quyết này không bao hàm, tức không có hiệu lực đối với, hơn một nửa triệu nô lệ hiện đang sống tại các tiểu bang lân cận. Các tiểu bang này chưa tham chiến nên quyền lực chiến tranh của tổng thống không thể được sử dụng để giải thoát nô lệ tại đây. Nhưng nếu họ quyết định đứng về phía Nam/Confederacy thì nó cũng sẽ được áp dụng đối với họ.
Mặc dầu Lincoln cho biết rõ rằng ông đã dứt khoát tư tưởng về vấn đề này trong cuộc họp nội các lịch sử này, ông vẫn mong muốn được biết các phản ứng của thành viên nội các, ủng hộ hay chống đối. Trước đó, một số người cho rằng tiến trình lấy quyết định của Lincoln là quá chậm chạp, thiếu quyết đoán, vân vân, nhưng thật ra trong đầu ông suy nghĩ về ưu điểm của từng vấn đề và các khía cạnh quan trọng cần thiết. Ông đã chuẩn bị kỹ và hiểu rõ tư duy của mỗi thành viên đến độ ông biết họ sẽ hỏi gì và sẵn sàng trả lời mọi ý kiến phản đối của họ. Nhưng khi Lincoln đã đi đến quyết định rồi, vấn đề còn lại không phải là cái gì mà là khi nào: khi nào sẽ thực hiện. Edwin Stanton, Bộ trưởng Chiến tranh, và Edward Bates, Bộ trưởng Tư pháp, hai thái cực trong nội các, lại là hai người ủng hộ Tuyên ngôn Giải phóng của Lincoln. Stanton thấy rõ lợi ích chiến lược nó sẽ mang lại. Bates đồng tình hoàn toàn nhưng yêu cầu phải có kế hoạch đối phó với những người nô lệ/da đen được giải phóng. Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles thì lưỡng lự và im lặng, vì nhìn thấy cả hai mặt vấn đề: tầm vóc của vấn đề và những kết quả bất định của nó, nhất là khi sử dụng quyền lực chiến tranh một cách quá thái như thế. Welles cũng lo ngại những người sở hữu nô lệ có thể vì đường cùng mà nỗ lực chống lại làm kéo dài thêm chiến tranh. Bộ trưởng Nội vụ Caleb Smith cũng giữ im lặng, nhưng nói riêng với phụ tá của mình rằng nếu Lincoln đề xuất tuyên ngôn này thì ông sẽ từ nhiệm, về nhà và chống đối lại Tuyên ngôn. Montgomery Blair thì cực lực phản đối Nghị định này, bởi ông lo ngại sẽ đẩy các tiểu bang biên giới với phía Nam, hiện đang trung thành với Union, về phía Confederacy. Hơn nữa ông cũng lo ngại nó có thể làm mất sự ủng hộ đối với đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử sắp tới.
Lincoln cho biết ông đã cân nhắc mọi khía cạnh mà Blair đưa ra, nhưng kết luận rằng tầm quan trọng của vấn đề nô lệ vượt xa vấn đề chính trị của đảng phái. Ông nhắc nhở rằng ông đã liên tục nỗ lực tìm một sự thỏa thuận chứ không muốn áp đặt, nhưng các nỗ lực này không đưa đến kết quả nào. Lincoln cho biết đây là quyết định của ông, và ông là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về nó. Tuy thế Lincoln vẫn chấp nhận để Blair đề nạp các phản đối của mình trên giấy hẳn hoi. Nói chung Lincoln chấp nhận mọi ý kiến trái chiều và phản đối nêu ra, nhưng cam kết rằng đã đến lúc phải hành động. Khi buổi họp gần kết thúc, Ngoại trưởng Seward nêu một câu hỏi chính đáng về thời gian. Seward cho rằng Tuyên ngôn này có thể bị dư luận suy diễn rằng đây là “một tiếng thét sau cùng của chúng ta, trên đường rút lui”. Seward biện luận rằng tốt hơn thì nên chờ cho đến khi chiến thắng ở về phía mình, và chỉ cần treo bảng Tuyên ngôn lên trên cổ nó thôi. Sau này Lincoln chính thức công nhận rằng ông thật sự chưa nghĩ đến khía cạnh này. Vì đề nghị của Seward quá hợp lý nên Lincoln đồng ý để bản nháp Tuyên ngôn sang một bên, chờ đến khi điều kiện thuận lợi, một chiến thắng lớn, rồi công bố. Trong thời gian đó ông thỉnh thoảng sửa đổi vài chỗ, bỏ chữ này thêm câu kia, và mong chờ thời điểm thuận lợi nhất đến để hành động.
Trong suốt hai tháng qua sau khi đọc Tuyên ngôn Giải phóng nháp lần đầu với nội các của mình, Lincoln đã nói chuyện riêng với từng thành viên trong nội các và ghi nhận mọi góp ý chính đáng của họ. Vì sự trung thành với Lincoln quá mạnh mẽ nên Ngoại trưởng Seward không phản đối Tuyên ngôn này. Nhưng ông đề nghị nên sửa một chút. Thay vì nói rằng chính quyền này (của Lincoln) thôi thì nên sửa lại thành chính quyền này và mọi chính quyền tương lai công nhận và duy trì sự tự do của người nô lệ. Lincoln cho biết ông không thể hứa thay cho các chính quyền tương lai mà ông không bảo đảm được. Nhưng sau cùng Lincoln cũng đã nghe lời khuyên của Seward và sửa lại đoạn văn này.
Khi bản Tuyên ngôn này xuất hiện trên báo chí ngày hôm sau (23/9/1862), tất cả thành viên nội các, từ nhiều khuynh hướng khác nhau, đều đứng đàng sau Tổng thống Lincoln. Làm sao Lincoln có thể thuyết phục được một nội các đa dạng trong quan điểm, đầy tham vọng, thích biện luận, đố kỵ và đầy tài năng để họ dịch chuyển quan điểm và ủng hộ Lincoln?. Câu trả lời tốt nhất, theo bà Doris Kearns Goodwin, có thể tìm ra được từ trong những điều mà ngày hôm nay chúng ta gọi là trí thông minh cảm xúc (emotional intelligence): sự đồng cảm, khiêm nhường, nhất quán, tự nhận thức, kỹ luật cá nhân và tinh thần rộng lượng/cao thượng của Lincoln. Lincoln tuyên bố: Khi nào mà ông vẫn còn ngồi đây (tổng thống), tôi sẽ không sẵn sàng trồng gai trong tâm hồn của bất cứ người nào. Trong mọi cuộc tiếp xúc hàng ngày với thành viên nội các, không bao giờ có chỗ nào dành cho cung cách hành xử có ý đồ xấu, cho sự ganh ghét ác cảm hay sự thù ghét riêng tư. Ông cổ võ cho mọi thành viên tranh luận với nhau, nhưng sẽ rất “buồn phiền” nếu thấy họ tấn công nhau ở công cộng. Cách bắn tỉa đó không chỉ là sai, đối với ông, mà còn tệ hơn, sai đối với quốc gia. Với các thử thách lớn lao trước mặt, ông yêu cầu mọi người đối xử với nhau lịch thiệp, đứng đắn. Mục tiêu chung ông đặt lên trên hết, lên hàng đầu của mọi hành động, để hình thành nội các và ràng buộc mọi người hành xử ở tiêu chuẩn cao với nhau.