William Shakespeare là một trong số những nhà văn hóa vĩ đại nhất của nhân loại. Từ lâu, sáng tác của ông đã vượt ra ngoài phạm vi nước Anh để trở thành tài sản chung của thế giới, thành gia tài quý báu nhất mà nghệ thuật kịch thế giới để lại cho chúng ta học tập, tiếp thu và phát triển. Tính thời sự của gia tài ấy không mảy may giảm đi mà trái lại tăng lên cùng năm tháng. Chỉ riêng trong nửa đầu thê’ kỷ XX, số công trình viết về ông đã nhiều hơn số công trình của ba thế kỷ trước công lại.
Bí quyết tạo thành tính bất tử, tính thời sự và tính toàn nhân loại của gia tài ấy chính là ở điểm ông đã trung thành nói lên những nguyên vọng, những ước mơ, những hoài bão thầm kín nhất của nhân dân Anh và từ chỗ phản ảnh trung thành tính nhân dân của một nước cụ thể, ông cũng đổng thời phản ảnh một cái gì cũng bất tử như nhân dân, đó là nhân loại.
Thời đại
Hoạt động văn học của Shakespeare gắn liền với cả một trào lưu tư tưởng và nghệ thuật vĩ đại đã lôi cuốn Châu Âu từ giữa thê’ kỷ XIV, gọi là thời văn nghệ Phục hưng. Đó là một thời đại đầy những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội.
Do sự phát triển của các đô thị, mở rộng thị trường thế giới nhờ việc phát hiên ra Châu Mỹ và con đường biển sang Ấn Độ, những mầm mống tư bản chủ nghĩa đang hình thành trong lòng xã hội phong kiến Châu Âu lớn lên nhanh chóng phá vỡ cái vỏ phong kiến bấy lâu kìm hãm nó. Tầng lớp thị dân đang lớn nhanh phải chống lại nhiều mặt cản trở của phong kiến: Nó phải phá vỡ chê’ độ cát cứ phong kiến, hàng rào thuê’ khoá để thống nhất thị trường nội địa và tạo lập những dân tộc. Nó phải phá bỏ những quan hê sản xuất phong kiến để tăng sức sản xuất. Nó phải đập tan thần học đã trói buộc tư tưởng để xây dựng những khoa học giúp nó chinh phục thê’ giới; đồng thời nó phải xây dựng một văn hoá riêng, một hệ tư tưởng riêng để đáp ứng những lạc thú thê gian chung cho mọi người chống lại thứ tư tưởng an bần, khổ hạnh, chịu kiếp tôi đòi của nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Trong cái đà này xuất hiên những người khổng lồ về văn hoá. Như Enghen viết trong Biện chứng pháp của tự nhiên’. “Đó là bước ngoặt tiến bộ vĩ đại nhất mà nhân loại xưa nay mới thấy. Một thời đại cần đến những người khổng lồ về mật tư tưởng, về nhiệt tình và về tính cách, khổng lồ về tài năng mọi mật, và về sự hiểu biết sâu rộng của họ”. Một loạt người khổng lổ xuất hiện: Dante ở Italia, Cervantes ở Tây Ban Nha, Rabelais ở Pháp. Họ xây dựng nên nền văn học mới nhằm giải phóng con người thoát khỏi những ràng buộc của tôn giáo và hệ tư tưởng phong kiến. Nội dung của nó là tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, tinh thần tự do dân chủ; hình thức của nó là ngôn ngữ dân tộc đã đạt đến trình độ nghệ thuật mẫu mực.
Nhưng thời đại Phục hưng cũng đồng thời là thời đại tích lũy nguyên thuỷ của tư bản, thời đại nông dân bị phá sản, bị bóc lột cùng cực và nổi lên bạo động, thời đại mở đầu sự thống trị nghiệt ngã của đồng tiền. Hai mặt mâu thuẫn này trong bản thân cuộc sống đều được ít nhiều phản ảnh trong các tác phẩm của các nhà nhân đạo chủ nghĩa, làm thành tính nhân dân sâu sắc của họ. Nhưng có thể nói không ở đâu mà hai mặt này thể hiện sâu sắc bằng ở Shakespeare; ở đấy chúng làm thành một mâu thuẫn đau đớn trong từng tác phẩm, khiến cho tác phẩm càng có sức thu hút lạ thường, vì người đọc khó lòng phân biệt được đây là tiếng cười hay tiếng khóc, là sân khấu hay cuộc đời. Điều này cũng có cái nguyên nhấn khách quan của nó.
Thực vây, không ở đâu mà mặt vinh quang và mặt đen tối của thời tích lũy nguyên thuỷ của tư bản lại cụ thể cho bằng ở quê hương nhà thơ. ở thế kỷ XVỈ, nước Anh có bước ngoặt lớn về mọi mặt; kinh tế, xã hội, văn hoá, biến thành “nước điển hình của tích lũy nguyên thuỷ của tư bản”, như lời nhân định của Marx.
Shakespeare sống trong giai đoạn mà nền móng của chế độ phong kiến đang tan rã ở Anh. Sang thế kỷ XVI, nước Anh đã rời khỏi con đường sản xuất nông nghiệp tự túc để chuyển sang nền kinh tế thị trường, sản xuất để bán. Đối tượng xuất cảng chính là len. Để có nhiều len xuất cảng, bọn đại địa chủ cướp đất của nông dân, biến đất cày thành đổng cỏ mênh mông để chăn cừu. Nông dân mất hết nhà cửa, ruộng vườn, trở nên đói khổ đi lang thang khắp nơi. Thomas Moore, nhà tư tưởng nổi tiếng thế kỷ XVI trong quyển Nước lý tưởng viết: “Ở tất cả mọi nơi, cừu là con vật rất hiền lành và sống kham khổ, thế mà ở đây, nó trở nên hung tợn và tham lam đến nỗi ăn thịt cả người, làm cho nông thôn, nhà cửa và làng mạc vắng tanh”. Còn nhà vua thì ra sức ủng hộ bọn quý tộc mới, ban hành những luật lệ cấm nông dân không được lang thang. Riêng dưới thời Henry VIII (1509-1547), cha của nữ hoàng Elizabeth (1558-1603), 72.000 nông dân “lang thang” bị giết. Những người nông dân này đã thành “tự do” ở chỗ thoát ly khỏi mọi ràng buộc phong kiến và mất tất cả tài sản. Họ kéo nhau vào các xí nghiệp, công trường và biến thành những người vô sản. Quảng đại nông dân đã nhiều lần nổi dậy. Đặc biệt nổi bật là cuộc khởi nghĩa nông dân năm 1607 đã lôi cuốn một phần nhân dán quan trọng miền Trung nước Anh. Nhưng các cuộc khởi nghĩa đều bị đàn áp và nước Anh thời Shakespeare bị bao phủ bởi những thớt chật đầu và những giá treo cổ”. Về thái độ trắng trợn của bọn quý tộc đối với nông dân, ta có thể tìm thấy trong vở kịch Coriolanus (viết năm 1608) lời tố cáo đanh thép:
“Họ chẳng bao giờ cẩn đến chúng tôi cả. Họ để chúng tôi chết đói trong khi kho của họ đầy nứt đố đổ vách; họ ban hành những luật lệ để bênh vực bọn cho vay nặng lãi, ngày ngày thu hồi những sắc lệnh bất lợi cho bọn giàu có và ban hành những luật lê gắt gao để kìm hãm, trói buộc, đàn áp dân nghèo. Nếu chiến tranh không nuốt sống chúng tôi thì họ cũng sẽ nuốt chúng tôi. Đấy, tình yêu của họ đối với chúng tôi là như thế đấy”
(Hồi I, Cảnh 1).
Tầng lớp quý tộc đi theo con đường tư sản hoá và giai cấp tư sản ra sức ủng hộ nhà vua thống nhất quốc gia chống lại bọn phong kiến phân quyền, thực hiện thống nhất thị trường nội địa, đồng thời chống lại Tây Ban Nha lúc bấy giờ mạnh nhất thế giới về hải quân để giành lấy chủ quyền về ngoại thương. Kết quả là trong một thời gian ngấn, nước Anh đã đứng đầu thế giới về thương nghiệp và hải quân. Trân đại thắng năm 588 của hạm đội Anh đánh tan hạm đội Tây Ban Nha mở đường cho việc buôn bán đại quy mô, kỷ nguyên xâm lược thuộc địa. Đó cũng là lúc phát triển mạnh mẽ tinh thần yêu nước, cũng như triết học và văn học nghệ thuật.
Những thay đổi về kinh tế và xã hội là cơ sở thuận tiện để tiếp thu và phát triển những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa thời Phục hưng. Vô số tác phẩm Pháp, Italia, Tây Ban Nha được dịch sang tiếng Anh. Nước Anh trước đây còn lạc hâu về mặt văn hoá đã đuổi kịp các nước tiên tiến và đứng đầu Châu Âu về triết học. Francis Bacon, nhà duy vật vĩ đại, mở đầu sự đoạn tuyệt với thần học, kêu gọi xây dựng kho í học thực nghiêm dựa trên khảo sát thực tế, đã có một ảnh hưởng sâu sắc tới toàn ớộ tác phẩm của Shakespeare. Hàng loạt nhà thơ trữ tình xuất hiện, kịch đang phát triển rầm rộ.
Nhưng cũng chính ở nước Anh, sự bần cùng hoá của nông dân diễn ra sâu sắc hơn ở đâu hết.
Để tích lũy tư bản, bọn thống trị đã làm đủ mọi cách: cướp đoạt, cho vay nặng lãi, xâm lược thuộc địa. Như Mác viết:
“Lịch sử của sự tước đoạt này được viết trong sử sách của nhân loại bằng tiếng nói của lửa và máu… Sự tước đoạt những người sản xuất trực tiếp được tiến hành với sự dã man tàn nhẫn nhất, dưới áp lực của những dục vọng hèn hạ nhất, bẩn thỉu nhất, vụn vặt nhất và điên cuồng nhất”.
Và sau khi làm nhiệm vụ tố cáo những bất công của chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã phơi bày bộ mật thực của mình: “Tại mọi nơi nó nắm được quyền thống trị, giai cấp tư sản đã đập tan mọi quan hệ phong kiến, gia trưởng thi vị. Nó đã xé toang không thương tiếc những dây xích sặc sỡ đã từng buộc chặt con người vào “các đấng quân chủ trời cho” của họ, mà không để lại gì giữa người với người một liên hệ nào khác ngoài cái quyền lợi trần truồng “tiền trao cháo múc” một cách tàn nhẫn. Trong làn nước bãng giá của sự tính toán ích kỷ, nó đã dập tắt tất cả mối rung cảm thiêng liêng của sự chiêm ngưỡng ngây ngất của tôn giáo, lòng nhiệt tình có tính chất hiệp sĩ, tính đa cảm phi-lit-tanh… Tóm lại, nó đã thay thế sự bóc lột bị che đậy bởi những ảo tưởng tôn giáo và chính trị bằng sự bóc lột công khai, trơ trẽn, trắng trợn và súc vật” .
Một loạt người quỷ quyệt, tàn nhẫn, vô liêm sỉ xuất hiện: những Shylock, Iago, Edmund, Macbeth ra đời, điển hình cho cái thời đại mà theo Mác, “mới sinh ra đã toát tất cả máu và bùn ở mọi lỗ chân lông”.
Shakespeare là con người của cái bước ngoặt lịch sử vĩ đại và đau thương ấy. Con người này sống như thế nào và nhìn cuộc sống như thế nào?
Con người của William Shakespeare
Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm 1564 ở thành phố Stratford trên sông Ayvon, thuộc quận Yorkshire miền Trung nước Anh. Đó là một thành phố nhỏ, chung quanh là ruộng và đổng cỏ xanh. Cậu bé William lớn lên giữa khung cảnh thiên nhiên thanh tú, làm quen với con sông đẹp, những câu chuyện và những bài hát dân gian, những điều này sau này sẽ đê’ lại một ấn tượng tươi mát trong các tác phẩm của tác giả. Cha ông – Jon Shakespeare là một thương gia khá giả, làm nghề bán len, bán tất Uy, đã từng giữ nhiều chức và cả chức thị trưởng thành phố. Lúc lên bốn, câu đã trông thấy cha mặc lễ phục chủ toạ những chợ phiên, ông thị trưởng này rất khuyến khích việc diên kịch ở thành phố mình. Trong số tám đứa con ông, Etmund, sinh sau William 16 năm trở thành diên viên và chết nãm 46 tuổi. Cách đấy 30 cây số là Lành phố Coventri nổi tiêhg về những vở kịch tôn giáo hàng năm và gần hơn, chỉ cách hai giờ đi bộ, là lâu đài Kêniwơc. Năm 1575, nữ hoàng Elizabeth đến ở lâu đài Kenilworth 19 ngày liền. Đó là những ngày tráng lệ, người ta đua nhau diễn kịch. Chắc chắn cậu bé 11 tuổi, con ông thị trưởng không vắng mặt tại các cuộc biểu diễn này.
Lên bảy, câu vào học trường thành phố, gọi chung là “trường ngữ pháp”, thuộc loại nổi tiếng lúc bấy giờ. Trong trường này người ta dạy tiếng Latinh, một ít Hy Lạp và học các quy tắc từ chương học. Trình độ học tuy chưa cao nhưng nó cũng đã giúp câu bé quen với thơ tình ái của Ovid, Horace, kịch của Plautus, Chuyện những con người trứ danh của Plautus và lịch sử Anh. Những điều này thấy rất rõ trong các tác phẩm đầu tiên của ông.
Những ngày rảnh, gia đình đi dạo ngắm cảnh nông thôn tươi mát bao quanh. Những ngày chủ nhật cả gia đình đến nhà thờ thành phố nghe giảng kinh Phúc âm. Nhưng có một điều rất lạ khiến ông khác mọi nhà văn hoá thời Phục hưng, đó là trong toàn bộ sự nghiệp văn học đồ sộ của ông, gần như vắng mặt ảnh hưởng của kinh Phúc âm trong khi ảnh hưởng này rất sâu sắc ở mọi nhà văn, nhà thơ Anh.
Nhưng gia đình của Shakespeare sa sút nhanh chóng, cho nên năm 14 tuổi ông thôi học, không được tiếp tục vào trường đại học mà phải làm giúp việc gia đình. Năm 18 tuổi, Shakespeare lấy một người vợ hơn mình 8 tuổi. Cuộc sống của gia đình càng chạt vật vì sau ba nãm kết hôn ông đã có ba con.
Năm 1585, Shakespeare đi bộ đến Luân Đôn trong khi các vở kịch của John Lyly, Marlowe, Grim và đang chinh phục khán giả Thủ đô. Christopher Marlowe (1564-1593) là người sáng lập ra bi kịch Anh thời Phục hưng với những vở kịch thấm nhuần tinh thần dân chủ, tự do và vô thần (Tacmeclan, Faust), đặc biệt với vở Người Do Thái ở đảo Mantua, người Do Thái Barabat có thể sánh với Sailôc trong Chàng thương nhân thành Venice: Ông sẽ cung cấp cho Shakespeare tư tưởng nhân đạo và những hình ảnh nhân vật đồ sộ từ Sailôc đến Macbeth, Lia, Coriolanus. John Lyly (1554- 1604) với nhũng vở hài kịch độc đáo, tế nhị, mang tính huyền thoại như Người đàn bà trên mặt trăng, Endimiôn, Midat và những bài hát nhí nhảnh, yêu đời, báo trước những vở kịch rộn ràng như Giấc mộng đêm hè, lắm tiếng mà chẳng có gì. Robert Greene (1558-1592) với những vở kịch như Giắc IV đã miêu tả nhân dân rất sinh động, nội dung phong phú, tuy bi đát nhưng bao giờ cũng kết thúc vui vẻ, đã để lại một ảnh hưởng rất rõ trong Pericles, Timberline, Cơn bão. Và cuối cùng Thomas Kyd (1558-1594), bậc thầy trong nghệ thuật trình bày một hành động chặt chẽ, căng thẳng và không ngừng phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong vở Hamlet của ông.
Đến Luân Đôn trong nhũng ngày huy hoàng nhất của kịch trường Anh, Shakespeare đã tìm thấy một thế giới những tình cảm mới mẻ, những đề tài, những nhân vật và toàn bộ kỹ thuật của kịch trường Phục hưng. Quan trọng hơn, ông đã nắm được con người xem kịch. Lúc này ở Luân Đôn có hai loại sân khấu dành cho hai loại khán giả khác nhau. Bên cạnh sân khấu dành cho các khán giả “thượng lưu” (quý tộc, tư sản giàu), còn có sân khấu dành cho khán giả bình dân gồm thợ thủ công, thuỷ thủ, nông dân tại các làng gần London, đầy tớ các nhà quyền quý, học sinh và sinh viên. Quảng đại quần chúng không biết chữ rất ham xem loại kịch này. Lớp khán giả này yêu cầu kịch phải nói lên những điều họ ấp ủ, phải vạch trần những tạt xấu, nêu lên sự thắng lợi của tư tưởng nhân đạo, chống lại tư tưởng khổ hạnh giả dối của phong kiến và nhà thờ, khẳng định giá trị yêu ghét của quần chúng và sức mạnh của quần chúng. Shakespeare không viết cho tầng lớp quý tộc, tầng lớp được gọi là “thượng lưu” vốn tìm ở nghệ thuật một sự tiêu khiển và do đó thiên về mặt kiểu cách, ngôn ngữ cầu kỳ, tình cảm giả dối, hình thức gò bó. Như một nhà phê bình nói, “ông nói với nhân dân” và tìm một hướng đi cho nghê thuật của mình là “đưa ra một tấm gương trong cuộc sống” Hamlet, Hồi III, Cảnh 3).
Nhưng Shakespeare còn phải chịu đựng nhiều thử thách, sống cuộc đời lân đận, khó khăn trước khi thực hiện được mơ ước của mình. Theo những công trình khảo sát công phu về đời ông, ông đã phải làm mọi công việc hèn kém tại rạp hát trước khi viết kịch: giữ ngựa cho khách xem, soát vé, nhắc vở, rồi đóng những vai phụ, chẳng hạn vai hồn ma của cha Hamlet, nhưng trước đó là những vai phụ trong các vở kịch của người khác. Dần dần ông được làm diẻn viên, và cuối cùng thành một nhà viết kịch và đạo diễn. Cuộc sống này đã có tác dụng lớn đối với tư tưởng và nghệ thuật của tác giả. Cuộc sống lao động vất vả từ năm 14 tuổi chính là cái trường đời làm cho tác giả thành con người của nhân dân, hiểu xã hội một cách sâu sắc. Nó cũng làm cho tác giả thành một người am hiểu sân khấu toàn diện từ tâm lý khán giả đến kỹ thuật diễn xuất, đạo diễn. Kinh nghiệm thực tiễn về sân khấu là điều không thể thiếu trong việc đào tạo một kịch tác gia toàn diện.
Nhưng Shakespeare không chỉ là con người của sân khấu. Cũng như mọi nhà văn hoá thời Phục hưng, ông cố gắng làm một học giả. Những năm Shakespeare sống ở Luân Đôn là những năm học tập cần mẫn. Qua những tác phẩm, dù là các bài thơ xonnê hay các vở kịch, ta thấy rõ ông khá thạo tiếng Pháp, tiếng Y là ngôn ngữ những nước đi trước nước Anh trong phong trào Phục hưng. Shakespeare thông thạo xonnê của Pêtrac, biết nhiều về kịch Y,đã đọc Xecvantet, Rabơle, nhất là chịu ảnh hưởng tư tưởng hoài nghi của Môngtenhơ (biểu lộ rất rõ trong Hămlet), đã cố gắng rất nhiều để học luật, vạn vật, lịch sử, triết học. Nhất là ông đã chú ý đến triết lý duy vật của Bacon, lịch sử của Hôlinset, cũng như văn học dân gian. Đành rằng đây đó vẫn còn có một vài chi tiết không đúng chô, một tên người, tên đất dùng sai, một số điển tích hiểu không đúng v.v… những điều mà một học giả uyên bác như Bâycơn nhất định không phạm. Nhưng trình độ sâu sắc vô địch của những vấn đề luân lý, sự phong phú về tư tưởng, phạm vi rộng rãi về kiến thức, cùng với cái nhân loại muôn hình muôn vẻ hoạt động trên một thao trường mênh mông bao gồm Hy Lạp, La Mã, đến Sclotland, Đan Mạch, từ cổ đại đến hiện đại cũng đủ nói lên tinh thần nghiêm túc, khổ học của tác giả đối với nghệ thuật và đủ để xoá tan những câu chuyện hoang đường về chàng Shakespeare dốt nát.
Đoàn kịch Shakespeare gia nhập đầu tiên là đoàn kịch của hầu tước Xtrangiơ. Ông không phải là một diễn viên nổi tiếng. Ông chỉ đóng những vai phụ như vai cha của Hămlet. Trái lại, về mặt sáng tác, chỉ trong một thời gian ngắn, những vở kịch của ông đã làm bá chủ kịch trường. Ông bắt đầu viết kịch vào khoảng 1588. Bốn năm sau, trước khi chết, Rôbơc Grin đã thấy ở Shakespeare “đối thủ đáng sợ nhất” và khuyên các bạn viết kịch nên giải nghệ đi thôi bởi vì mọi cố gắng đối chọi đều sẽ vô ích.
Hoạt động sân khấu của Shakespeare tạm đình lại trong hai nãm (1592-1594) vì nạn dịch và bạo động ở Luân Đôn. Lợi dụng hoàn cảnh này, Shakespeare viết hai tập thơ trữ tình là Venus và Adonis (1593) và Lucrece (1594). Hai tập tập thơ này đều để tặng hầu tước xứ Xaothămtân là Henri Raiôthêtxli, một vị Mạnh Thường Quân về nghệ thuật. Hình ảnh Raiôthêxli chính là điển hình của chàng thanh niên mã thượng, đẹp trai, của các chàng Romeo, Ferdinan, Batxaniô, Florizen, Birôn trong các vở kịch sau này. Hai tập thơ này ngay lúc đương thời đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Shakespeare được gọi là “chàng Shakespeare với cái lưỡi bằng mật ong” và được sánh ngang hàng với thi sĩ Ôvit của La Mã. Nó chứng tỏ Shakespeare đã tiếp thu được toàn bộ tinh hoa của thời Phục hưng Y. Đọc lên ta thấy những câu thơ nhẹ nhàng với một trình độ tê’ nhị chẳng kém gì Pêtrac. Những tập thơ này cũng như 154 bài xonnê của tác giả, đã khiến tác giả trở thành một trong những nhà thơ trữ tình lớn nhất của Anh và chỉ riêng chúng cũng đủ làm cho Shakespeare bất tử. Tuy vây, đối với thế giới, nó đành mang một số phận éo le. Nó khó dịch quá, vì quá tế nhị và quá kín đáo. Nhưng lý do chính là Shakespeare còn viết những vở kịch lôi cuốn cả nhân loại, cho nên những bài thơ tình tuyệt diệu kia bỗng dưng phải lùi xuống hàng thứ yếu.
Có thể nói từ 1594 trở đi, suốt mười mấy năm liền, các vở kịch của Shakespeare đã tuyệt đối làm bá chủ kịch trường Anh. Đó là thời gian sáng tác sôi nổi, cứ mỗi năm Shakespeare viết hai vở kịch. Hơn thế nữa, Shakespeare lại còn diễn kịch, đạo diễn, lãnh đạo đoàn kịch của mình ở rạp hát Globus lớn nhất Luân Đôn. Và ông đã hoàn tất sự nghiệp vĩ đại nhất về kịch trong lịch sử nhân loại: 37 vở kịch (theo những công trình khảo sát nghiêm túc nhất), hầu hết là kiệt tác, trong đó hiện lên tất cả nước Anh: Nước Anh tha thiết yêu đời, nước Anh hưng thịnh, nhưng đồng thời cũng là nước Anh đau thương trong thời tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản.
Năm 1612, ông rời khỏi kịch trường. Nguyên nhân của việc này không phải vì nguồn thơ đã cạn, mà vì thị hiếu triều đình đã thay đổi: vua Jăc I chỉ thích loại kịch kiểu cách, quý tộc. Sân khấu xưa là một nơi tương đối tự do, nay bị kiểm soát gắt gao. Nhà pháp sư của ngôn ngữ rời khỏi kịch trường trở về cuộc sống yên lặng ở quê hương cho đến khi chết (ngày 23 tháng 4 năm 1616), trùng với ngày sinh.
Đời Shakespeare thực là đơn giản. Đã mấy thế kỷ nay bao nhiêu người tìm tòi nghiên cứu để thấy những chi tiết “cá nhân”, những đặc điểm rõ rệt hơn trong cuộc đời tư của Shakespeare, nhưng đều không đạt mục đích. Điều đó nào có riêng gì đổi với Shakespeare. Trong thế kỷ XVII, địa vị người viết kịch rất thấp, viết kịch không phải là một nghề. Mặc dầu các vở của Shakespeare được mọi người hoan nghênh, nhưng không có mấy ai quan tâm đến cuộc đời của tác giả. Các nhà bác học coi thường lối “kịch bình dân” và cho rằng tác gịả của nó không đáng để ý. Những tác phẩm của Shakespeare không cho ta biết gì về cuộc đời của tác giả. Tác giả hoàn toàn hy sinh mình để nhường chỗ cho nhân vật. Các bài thơ trữ tình chỉ nói đến một tình yêu không toại nguyện, lòng khao khát chờ mong của mọi kẻ chân tình.
Tinh trạng thiếu thốn tài liêu này chính là cơ sở cho những “lý thuyết” muốn phủ nhân sự tồn tại của Shakespeare. Một số học giả tư sản nêu lên cái gọi là “vấn đề Shakespeare”, và trong mấy thế kỷ nay vấn đề này đã làm tốn rất nhiều giấy mực.
Nhiều học giả cho rằng một sự nghiệp phi thường như thế lẽ nào lại không phải do một quý tộc đương thời, học vấn bao la thiên kinh vạn quyển làm ra? Lẽ nào nó lại là sự nghiệp của một anh chàng học trường ngữ pháp, chưa bước chân vào đại học ngày nào và là con một thương nhân phá sản? Họ cố tìm những tài liêu, và sẵn sàng xuyên tạc tài liêu để chứng minh rằng Shakespeare học hành dốt nát, vì ăn cắp mà bỏ trốn đến Luân Đôn để tránh truy nã, và sau đó vào một rạp hát. Họ bảo Shakespeare không hề viết vở kịch nào, trái lạ, các vở kịch là những tác phẩm của một học giả quý tộc, học vấn uyên thâm, tài năng xuất chúng, nhưng vì “thể diện” nên phải mượn tên của Shakespeare. Sau khi phủ nhận vai trò đích thực của Shakespeare, dĩ nhiên người ta phải tìm tác giả thực tế, và tác giả ấy dĩ nhiên phải là con người thông thái nhất nước Anh thời bấy giờ. Người được chọn đầu tiên là nhà triết học Francis Bacon, rồi đến hầu tước Edward de Vere, hầu tước William Stanley, Samuel Johnson, hầu tước Oxford v.v… Mọi “thuyết” này chẳng có một cơ sở khách quan nào hết. Mọi người đồng thời quen biết Shakespeare như Ben Jonson đều chẳng ai mảy may hoài nghi về vấn đề tác giả, chẳng ai nói đến một Shakespeare nào khác ngoài anh chàng học “trường ngữ pháp”. Lại có xu hướng cho rằng Shakespeare chỉ viết một nửa số tác phẩm, nửa còn lại phần lớn do người khác viết bởi vì theo họ có những đoạn không xứng với tài năng của Shakespeare. Khoa khảo chứng học hiện đại đã bác bỏ lập luân này. Người ta đã tìm được những bản viết tay của nhiều vở kịch không phải là bản sao mà chính là bản gốc với những sửa chữa của tác giả vào khoảng 1600. Tuy có nét chữ của người khác trong các phần chữa, nhưng toàn bộ là của Shakespeare. Những lý luân phủ nhân Shakespeare đều là những lý luân chủ quan, hoặc xuất phát từ thành kiến giai cấp, hoặc tách rời sáng tác cá nhân ra ngoài hoàn cảnh xã hội, xét một cách cô lập, và do đó cho rằng trong các tác phẩm có nhiều mâu thuẫn, thiếu nhất quán về tư tưởng và ngôn ngữ. Họ không thấy rằng những mâu thuẫn kia chính là ở trong cuộc sống và chính nó đã cấu tạo nên một Shakespeare đa dạng, muôn hình muôn vẻ, sâu sắc và mênh mông như cuộc sống vây.
Quá trình sáng tác các vở kịch của Shakespeare
Người ta thường chia quá trình sáng tác kịch của Shakespeare thành ba giai đoạn: giai đoạn trước 1600, giai đoạn 1601-1608 và giai đoạn 1609-1612. Sự phân chia này không phải ngẫu nhiên mà phản ảnh hiên thực của xã hội Anh.
Trong lịch sử Anh, giai đoạn trước 1600 là giai đoạn những lực lượng tiến bộ trong nước (tư sản và tầng lớp quý tộc theo xu hướng tư sản gắn liền với thương nghiệp và công nghiệp) đoàn kết với nhà vua để thống nhất đất nước, đập tan những thế lực phong kiến tìm cách duy trì sự chia cắt đất nước. Bấy giờ có hai vấn đề đặt ra: sự hình thành nhà nước đân tộc tư sản và sự hưởng thụ những lạc thú của cuộc sống khi sản xuất được giải phóng khỏi những xiềng xích phong kiến bấy lâu kìm hãm nó.
Chính trong giai đoạn này, Shakespeare đã viết toàn bộ (trừ Henri VIII viết năm 1612) những vở kịch lịch sử lấy tên gọi chung là các biên niên sử Anh: Henri VI (ba tập, 1590 – 1591), Risac III (1592), Risac II (1594), Vua Giôn (1596), Henri rv (hai tập, 1597), Henri V (1598). Tất cả những vở này đều xoay quanh chủ đề quá trình đấu tranh thắng lợi chống lại bọn lãnh chúa phong kiến, sự thành lập chính quyền quân chủ tập trung và sự hình thành dân tộc. Đó là những vở kịch lạc quan, sổi nổi, đầy tính sử thi. Đặc điểm của giai đoạn này là niềm vui rộn ràng, lòng tin yêu vào cuộc sống, vào tương lai. Nó thể hiện toàn vẹn nhất ở những vở hài kịch tươi vui, đầy sức sống làm thành những vở hài kịch nổi tiếng nhất của tác giả: Hài kịch của những hiểu lầm (1589 – 1590), Hai chàng ở thành Veron (1593), Giấc mộng đêm hê (1595), Chàng thương nhân thành Vơni (1595), Những bà vợ vui ve’ ở Uynxo (1598), Lắm tiếng mà chẳng có gì (1599), Tuỳ theo ý muốn (1600). Cũng trong giai đoạn này, ông viết hai vở bi kịch: Rômêô và Juliet (1595) và Juliut Xédar (1599). Tuy kết thúc của Rômêô và Juliet buồn thảm nhưng vẫn toát lên cái không khí phục hưng yêu đời, những cảnh cười sảng khoái.
Trong giai đoạn này, một vấn đề thường được nêu lên: Tại sao trong lúc nông dân bị bóc lột, đất đai bị mất, phải đi lang thang mà cuộc sống trong kịch Shakespeare lại tươi vui, rộn ràng như thế? Một nhà Shakespeare học Liên Xô cũ là A. Xtainơ cho rằng tiền đề để giải thích cơ sở lịch sử của các hài kịch của Shakespeare là thời mà Mác gọi là “thế kỷ hoàng kim” (thế kỷ XV) ở Anh. Vào cuối thế kỷ XIV ở Anh, sự lệ thuộc Trung cổ của nông dân trong thực tế đã mất. Tối đại bộ phân nông dân lúc này đã là những nông dân tự do, có nền kinh tế của mình. Con người nông dân tự do, không biết đến sự lẹ thuộc nông nô, nhân thức được giá trị của mình đã hình thành. Thế kỷ XV là thế kỷ nước Anh tiền tư bản, gọi là “nước Anh xanh ” (Green England), đối lập với “nước Anh đen” (Black England) thời Đickenx. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã gây nên những đau khổ, đã tước đoạt ruộng đất của nông dân, nhưng vẫn không làm họ quên được cái thời đại hoàng kim. Những kỷ niệm này vẫn sống trong những bài hát, những bài dân ca, những câu đố, những câu tục ngữ trong văn học truyền miệng của nhân dân mà các vở kịch của Shakespeare đã giữ lại một phần quan trọng. Các vở kịch của ông biểu lộ một xu thế chung của văn học Châu Âu thế kỷ XVI. Lúc này cá nhân hãy còn được quan niệm như là một cái gì đổng nhất và duy nhất, không có mâu thuẫn và không biến đổi trong quá trình phát triển. Xmirnôp gọi đó là “cá nhân theo quan điểm hình học” cứng rắn “như một nguyên tử của Đêmôkrit”. Quan điểm này cũng được thể hiện ở Bôcatxơ, Pêtrac (Ỵ), Klemăng Marô, Rôngxa (Pháp), Maclô (Anh). Cơ sở của quan niệm này là quan điểm cho rằng bản chất tự nhiên của con người bao giờ cũng tốt, ta chỉ cần theo nó. Rabơle (Pháp) bảo mọi ham thích tự nhiên của con người bao giờ cũng chính đáng và người ta tin tưởng một cách “ngây thơ” và “không tưởng” rằng trong xã hội không có mâu thuẫn đối kháng, cái đẹp, cái thiện sẽ thắng một cách “dễ dàng”, chỉ cẩn kêu gọi, giáo dục là con người sẽ vứt bỏ mọi ích kỷ và cuộc sống sẽ tươi đẹp thôi. Quan điểm này là cơ sở của những vở kịch vui vẻ rộn ràng của Shakespeare, ơ đây tinh thần nhân đạo biểu hiện thực là đẹp đẽ nhưng không khỏi mang ít nhiều tính chất không tưởng, sức thuyết phục của nó, và đổng thời sự hạn chế của nó cũng ở đâ’y.
Nhưng thời đại “nước Anh vui vẻ” (Merry England) quá ngắn ngủi. Từ 1597, người ta đã thấy “cái khối tiến bộ” tan rã. Cuộc đâu tranh giữa giai cấp tư sản và nhà vua đã thành gay gắt. Nghị viện trước đây là chỗ dựa của nhà vua đang bắt đầu chống lại nhà vua. Sự chuyển biên này đã để lại dấu vết của nó trong Juliut Xêdar (1599) mà chủ đề là cuộc đấu tranh giữa những lực lượng dân chủ và lực lượng quân chú, độc tài, thể hiện trong nhân vật Xêdar. 0 đây ta gặp một không khí nặng nề, đó là vấn đề chính quyền quốc gia không tìm ra lối thoát. Nó bắt người ta lo sợ trước tương lai, vì trong vở kịch, mặc dầu Brutut giết được Xêdar nhưng những lực lượng độc tài vẫn tồn tại và cuối cùng đã giết Brutut. Nó đánh dấu một bước chuyển biên
Từ 1601 đến 1608, tức là dưới triều vua Jắc I, sự đoàn két tạm thời giữa quý tộc và tư sản đã tan rã hẳn. Sau khi thống nhất quốc gia, chính quyền nhà vua đã thành trung tâm của những lực lượng phản động muốn phục hồi lại trật tự phong kiên. Những mầm mống của cuộc cách mạng tư sản (1642-1649) đang thai nghén, chờ đợi thiên tài của Mintơn (sính năm 1608). Vấn đề đật ra cho một nghệ sĩ thiên tài là phải có can đảm chọn, và phải chọn đúng, dứt khoát. Và Shakespeare đã làm thế. Trung thành với lý tường nhân đạo chủ nghĩa, Shakespeare đã đoạn tuyệt với những ảo tưởng phong kiến. Nhưng một điều còn vĩ đại hơn khiến ông trở thành nhà thư lớn nhất của văn học thời Phục hưng đó là ông dám nhân thức rằng thời Phục hưng đã chết. Sự tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản đã đẻ ra những mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản và quần chúng nghèo khổ. “Giấc mơ thời Phục hưng” đã chết. Shakespeare không phải là “nhà nhân đạo chủ nghĩa kiều thư phòng”. Ông là con người của quần chúng. Ông đã dám nhìn thẳng vào thực tế, nêu lên sự tan rã đau đớn của các ảo mộng của con người trước sự tàn bạo và phũ phàng của tư bản. Nhưng không phải vì thê’ mà chủ nghĩa nhân đạo biên thành chủ nghĩa yếm thế, bi quan. Như Anixt nói điều này tuyệt đối không dẫn tới sự đầu hàng của chủ nghĩa nhân đạo mà chỉ bắt chủ nghĩa nhân dạo võ trang lại”, để khắc phục cái nhìn phiến diện, cứng nhắc trước đây vào thê giới và con người phát triển sâu thêm, rộng thêm, thâm nhuần tính chất phê phán. Với cái nhìn ấy, cá nhân hiện ra phức tạp và đa dạng, đầy mâu thuẫn và sinh động. Đó là lúc Môngtenhơ phát hiện ra “cái tôi” đầy mâu thuẫn, khó hiểu, luôn luôn phát triển theo hoàn cảnh bên ngoài và nhận thức
rằng chỉ lý trí, lẽ phải thôi không đủ để giành thắng lợi; con đường đi đến chân lý, cái đẹp, hạnh phúc không thể đạt được dề dàng mà phải trải qua những hoài nghi đau đớn, những tìm tòi gian khổ và vân lộn không ngừng.
Trong hoàn cảnh ấy, Shakespeare đã dũng cảm đưa ra một cách thể hiện nhân vật hết sức mới mẻ: trên sân khấu hiện những con người đa diện, luôn luôn bãn khoăn suy nghĩ tìm ý nghĩa của cuộc sống qua những hành động diễn biến nhanh như một cơn lốc. Và sau khi kết thúc một cách rực rỡ nền văn học Phục hưng với những vở hài kịch, Shakespeare đã mở đầu nền ván học cận đại bằng những bi kịch làm chủ kịch trường thế giới suốt mấy trăm năm nay: Hamlet (1601), Othello (1604), Macbeth (1605), Vua Lear (1607)… Chưa bao giờ ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc con người được đặt ra gay gắt hơn và bắt người ta suy nghĩ hơn. Ngay trong giai đoạn này, các vở hài kịch cũng đượm vẻ chua chát, bắt người ta suy nghĩ: Cái gì kết thúc tốt là cái ấy tốt (1602), Trôilut và Kretxida (1602)…
Từ 1608 trở đi, thế lực quân chủ tạm thời thắng thế. Trên sân khấu, lối kịch kiểu cách, đáp ứng thị hiếu của quý tộc đã lấn át những vở kịch của ông. Lớp tư sản lúc này không muốn tìm võ khí ở kịch mà ở giáo lý Thanh chân (puritanism) chống lại kịch, bởi vì để lôi cuốn quần chúng thì tôn giáo là võ khí có tác dụng rộng lớn nhất. Trong hoàn cảnh ấy, tuy nội dung của kịch vẫn là sự phê phán đầy suy nghĩ và sâu sắc về cuộc sống, nhưng câu chuyện đã bị đẩy lùi vào xứ sở không tưởng của huyền thoại: Pêriklét (1609), Ximhơlin (1610), Câu chuyện mùa dông (1610), Cơn bão (1611).
Tư tưởng chủ đạo nào đã đem đến sự thay đổi ấy? Phải chăng như Xmứnôp nói, đó là “một biện pháp để tồn tại?”. Trong khi không thay đổi về thế giới quan, về tư tưỏng, phải chăng tác giả phải khoác cho nó bộ áo hài kịch không tưởng kiểu Fletsơ? Hay như Anixt nói, đây là biểu hiện tinh thần lạc quan, tin tưởng vào những giải pháp thoả đáng tương lai, trong khi cuộc sống trước mắt không thể nào giải quyết được. Dù sao ta vẫn thấy tác giả cố tìm một cái kết “đại đoàn viên” cho một câu chuyện mà theo cái logic khách quan của hành động thì phải kết thúc như Ôtenlô hay Hămlet.
Nhưng dù cho quá trình sáng tác này có gồm nhiều giai đoạn khác nhau như vậy, trước sau chúng ta cũng chỉ có một Shakespeare duy nhất: Shakespeare, người tiêu biểu lỗi lạc cuối cùng của tư tưởng nhân đạo thời Phục hưng, với lòng kiên quyết nêu cao quyền tự do của con người trong vấn đề đòi quyền sống, quyền yêu đương và quyền hưởng hạnh phúc, đổng thời là người mở đầu nền vãn học cận đại, là người đầu tiên lên tiếng bênh vực con người chống lại những tội ác mà đồng tiền gây ra trong cái xã hội vừa mới hình thành là xã hội tư bản.
Những vở kịch “biên niên sử’
Người ta thường gọi những vở kịch lịch sử của Shakespeare trước 1600 là những vở “biên niên sử” (chronicles). Đó là vì toàn bộ các vở này làm thành một bộ biên niên sử sinh động và phong phú của nước Anh suốt mấy thế kỷ gần như liên tục: Riêng tên gọi các vở kịch cũng chứng minh tác giả cố tình đưa lên sân khấu toàn bộ quá trình hình thành dân tộc Anh qua các triều đại từ vua John (1199-1216), Richard II (1377-1399), Henri IV (1399-1412), Henri V (1413-1422), Henri VI (1422-1461), Richard III (1483-1485), và Henri VIII (1509-1547).
Phần lớn các vở kịch này đều dựa vào Biên niên sử của Anh, Ai Nhĩ Lan và Xcôtlán xuất bản năm 1577 của Hôlinset, lúc tác giả này hãy còn sống ở ngay cạnh Xtratfo. Shakespeare theo Hôlinset rất sát, có khi chuyển văn xuôi của Hôlinset sang văn vần. Ngoài ra, các vở kịch Vua Lia, Ximbơlin, Măcbet cũng đêu lấy ở đấy. Vở kịch biên niên sử nổi tiếng nhất là vở Henri IV. Toàn bộ vở kịch xây dựng trên sự đối lập: một bên là nhà vua luôn luôn lo tìm những mưu mô chống lại bọn lãnh chúa phong kiến và một bên là thái tử vô tư lự (sau này là Henri V), chỉ chơi bời với một lũ vô lại trong đó nổi bật nhất là gã Fanxtap. Cuối cùng, thái tử hối hân và trước khi Henri IV chết, thái tử hứa từ bỏ tất cả lũ bạn bè du đãng để làm một ông vua hiền. Lời hứa này được thực hiện đẹp đẽ. Henri V lên ngôi đuổi bọn Fanxtap và trở thành một ông vua mẫu mực. Nổi bật nhất trong vở kịch là gã Fanxtap nhát gan, tham lam, trơ trẽn nhưng hết sức láu mép, và vui nhộn hết chỗ nói. Nhân vật này đã nổi tiếng khắp thế giới và trở thành một danh từ chung.
Hai vấn đề quán triệt toàn bộ các vở biên niên sử và các vở kịch lấy đề tài ở sử La Mã như Juliut Xêdar, Entơni và Kliơpaírơ, Côriôlanut là cách đánh giá chế độ quân chủ tập trung và phương pháp xây dựng bối cảnh lịch sử mà Enghen gọi là “bối cảnh Fanxtap”.
Shakespeare tán thành thống nhất quốc gia vào một chính quyền trung ương vững chắc. Ông mạt sát bọn lãnh chúa phong kiến hiếu chiến, hung bạo, tham lam, muốn duy trì tình trạng chia cắt đất đai để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của mình và nhân thấy tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ (âm mưu, ám sát, chiến tranh) là tai hoạ đối với nhân dân. Trong hoàn cảnh đương thời, ông chỉ có thể nghĩ đến một chế đô quân chủ tập trung do một ông vua hiền cai trị. Nhưng ông thấy rõ vua chúa nước Anh còn xa mới là những ông vua hiền, cho nên cái nhìn của ông đối với chế độ quân chủ đổng thời mang tính phê phán: Giôn là một tên hèn mạt, giả dối, Henri IV là người nhu nhược, Henri VIII khôn ngoan, giảo hoạt, biết che đây tính chất bạo quân dưới mặt nạ công lý. Ông vua lý tưởng theo ông, phải như Henri V, vui vẻ, bình dân, thân mật với quần chúng, dân chủ với binh sĩ, biết dựa vào sức mạnh của dân mà thực hiện nhiệm vụ lịch sử. Chính vì vậy ông chống lại chế độ quân chủ tập trung khi thấy nó đi ngược lại nguyện vọng của quần chúng, và do đó, sân khấu của ông lại là diễn đàn của quần chúng nhân dân chống lại quý tộc (Juliut Xêdar, Côriôlanut).
Xét về mặt nghệ thuật, “lần đầu tiên trong thi ca thế giới, Shakespeare đưa ra những mẫu mực của chủ nghĩa lịch sử, bằng cách xây dựng những hành động không phải trên thần thoại và truyền thuyết, mà đây là cái chủ nghĩa lịch sử đầy thi vị, nêu bật quá khứ trong những bức tranh và những hình tượng đầy kịch tính, bằng cách nắm đúng từng thời đại và đưa ra một sự đánh giá chính trị và đạo đức của những động lực lịch sử” . Đóng góp to lớn của ông về mặt này không chỉ ở điểm ông đã hoàn toàn thoát khỏi quan niệm thần bí, xem lịch sử như là sự thể hiện ý chí của Thượng đế, điều mà một vài học giả thời Phục hưng như Makiaven đã đạt được. Ông là người đầu tiên thấy được sự thống nhất chặt chẽ của số phận cá nhân với số phận của dân tộc, người đầu tiên nêu lên sinh hoạt xã hội của quần chúng bình dân (dân nghèo thành thị, nông dân, thương nhân, binh sĩ) để cho họ nói thẳng ý kiến của họ đúng như bản chất của họ trong thực tế. Tóm lại một chữ, ông đưa họ lên sân khấu, trực tiếp tham gia hoạt động chính trị của thời đại và cắt nghĩa sự thành công hay thất bại của nhà vua là ở chỗ nhà vua được họ ủng hộ hay bị họ chống lại. Lúc cần, ông đưa cả lãnh tụ nông dân khởi nghĩa như Jăc Kít lên sân khấu {Henri Vỉ). Đặc biệt, ông biết rút ra từ nhân dân cái “tinh thần của thời đại”. Sự tái tạo quá khứ của ông thường được so sánh với phương pháp khôi phục lịch sử của Oantơ Xcôt. Nhưng đây không phải là biện pháp sử dụng khảo cổ học để phục chế các chi tiết bên ngoài (quần áo, cách ăn, hình dáng các nhân vật), mà các nhà tiểu thuyết lịch sử gọi là “màu sắc thời đại”. Trái lại, đây là cách đi sâu vào lịch sử, dựng lên cái bản chất đúng đắn của con người của thời đại, nhất là dựng lên những con người nông dân tự hào, những người bình dân La Mã để bộc lộ những mâu thuẫn trong xã hội. Chính vì vậy, mặc dầu có những chi tiết trái với lịch sử (thời gian, địa điểm, biến cố), Shakespeare vẫn xứng đáng với lời ca ngợi của Herde khi thấy trong sáng tác của Shakespeare “nhân loại, thế giới, lịch sử” và của Hainơ “con người Anh vĩ đại không chỉ là một nhà thơ mà còn là một sử gia… Không những Shakespeare hiểu các biến cố lịch sử của tổ quốc mình mà ông còn hiểụ các sự việc mà các nhà biên niên sử thời cổ đại cho chúng ta biết. Và chúng ta thực sự ngạc nhiên thấy rằng ở trong những vở kịch của ông, ông miêu tả quá khứ của La Mã với những màu sắc trung thành nhất”.
Các vở hài kịch
Shakespeare viết đủ mọi loại hài kịch. Có những hài kịch vui tươi rộn ràng từ đầu chí cuối như Hai chàng thành Vêrôn, Giấc mộng đêm hề, Phí công đeo đuổi tình yêu, Đêm thứ mười hai, Những bà vợ vui vẻ ở Uynxo\ có những hài kịch trong đó cái vui xen lẫn cái buổn, như Chàng thương nhân thánh Vơni, Trộilủt và Krenxiđa, Timôn người Aten, v.v…
Cơ sở của hài kịch của Shakespeare đã được Enghen nêu rõ bằng những đánh giá xuất sắc:
“O! Thi ca trong các tỉnh của nước Anh mới thi vị làm sao! Thường thường anh cảm thấy như ỉà sống trong những golden days of merry England. (Những ngày hoàng kim cúa nước Anh vui vẻ – N.D) và kìa anh thấy Shakespeare với khẩu súng trên vai, đi nhẹ nhàng trong những bụi rậm để tìm một con thú săn, hay là anh sẽ ngạc nhiên tại sao trên đổng cỏ xanh này lại không diễn ra trong thực tế một trong những vở kịch thần tiên của ông ta. Bởi vì hành động của vở kịch dù có diễn ra ở Y, ở Pháp hay ở Nava, thì về cãn bản trước mắt chúng ta, bao giờ cũng là cái Merry England (nước Anh vui vẻ – N.D), tổ quốc của những người thường dân độc đáo, của những thầy học làm ra vẻ thông minh, của những người đàn bà đáng yêu và kỳ lạ, anh sẽ thấy rằng những hành động kia chỉ có thể xảy ra dưới bầu trời nước Anh. Chỉ trong một vài vở hài kịch, như Giấc mộng đêm hè, người ta mới cám thấy khí hậu miên Nam Châu Âu cũng như người ta cảm thấy điều đó trong Romeo và Juliet”‘“.
Chú đề cúa hài kịch là lời ca ngợi sự thắng thê’ của tư tưởng nhân đạo đối với những thành kiên Trung cổ. Đó là lời ca ngợi sự xuâ’t hiện của con người mới, tự do, sung sướng. Trong Phi công theo đuổi tình yêu, vua Nava và ba triều thần kiên quyết bỏ cuộc sống, chạy vào sách vở, triết học kinh viện. Họ biến thành một hạng người gàn dớ rãt tội nghiệp. Đột nhiên công chúa nước Pháp và ba cô thị nữ đến. Thế là cả bôn chàng kia vất bỏ sách vở, thánh hiển, tất cả triết lý Trung cổ, vì con mất đàn bà “sáng hơn cả ngọn lửa của Prômêtê, sáng hơn tất cả sách vở, tất cả nghệ thuật, tất cả các viện hàn lâm, con mắt ấy sáng tạo, nuôi dưỡng toàn thể loài người”.
Khung cảnh quen thuộc của hài kịch là “nước Anh xanh tươi” với những đổng cỏ, những cánh rừng, với những con người sống để mà yêu bất chấp uy quyền cha mẹ, như trong Giấc mộng đêm hè. Tuỳ theo ý muốn. Tình yêu của họ tuy bị trắc trở nhưng cuôì cùng họ đều được toại nguyện. Chính vì vậy, hài kịch của ông rất phong phú tính trữ tình và rất lôi cuốn, nên thơ. Các nhà phê bình thường gọi những vở hài kịch này là ngày hội tưng bừng cúa thời Phục hưng. Thực vậy, đây là những kiểu mầu trước không có đã đành, mà sau này cũng không ai bắt chước được. Đó là vì cái giây phút vui vẻ kia quá ngắn ngủi trong lịch sử loài người. Xã hội tư bản đã bóp nghẹt cái vui, bắt nhân loại hàng thê’ kỷ phải đau khổ, quằn quại. Hài kịch từ nay sẽ đi một con đường khác, con đường của Môlie: cái vui không nằm trong cuộc đời mà nằm trong thái độ châm biếm chế nhạo cuộc đời. Xem hài kịch Môlie ta cười vỡ bụng. Nhưng đây là cười những lăng nhăng, nhảm nhí, những cái rởm và tật xấu của xã hội. Ta cười những cái trơ trẽn trong cuộc sống, chứ bản thân anh chàng đạo đức giả, các tiểu thư sính chữ, con người hà tiện, kẻ ghét đời có gì là vui đâu. Môlie có thể xem là vô địch trong việc tạo ra những cảnh ngộ, những tâm lý, những câu nói buồn cười. Nhưng tìm đâu thấy cái không khí tươi vui của Đêm thứ mười hai, tìm đâu thây những con người như Maria, Viôla, Tôbi? Đó là vì khi Môlie ra đời thì
Shakespeare đã chết được sáu năm và nụ cười Shakespeare, nếu có thể bắt gặp ở Rabơle, ở Bôcátxơ, thì sau đó đã thuộc về dĩ vãng và chỉ có thể quay lại với một xã hội khác thay thế xã hội tư bản.
Bên cạnh việc ca ngợi sự đắc thắng của tư tưởng nhân đạo, việc chê’ nhạo cảnh tan rã của chê’ độ phong kiến phân quyền cũng là một chủ đề của hài kịch. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật Fanxtap lại xuất hiện hai lần làm nhân vật chính của biên niên sử Henri V và vở hài kịch Những bà vợ vui vẻ ở Uynxo, Fanxtap chính là hiện thân của sự đổ vỡ của mọi giá trị phong kiến. Y là một quý tộc, nhưng đã vứt bỏ mọi cái mà phong kiến gọi là đạo đức. Y chỉ lo ăn chơi, rượu chè, ve gái, kiếm tiền và khoe các tật xấu của mình một cách công khai, khoái trá. Trong Những bà vợ vui vẻ ở Uynxo, y muốn ve cùng một lúc cả hai người đàn bà đẹp là bà Pagiơ và bà York để xoay tiền. Hai bà này mặc dầu có hai ông chồng hay ghen vẫn thấy rằng họ có quyền bông đùa, miễn là vẫn chung thuỷ với chổng. Các bà bày ra những mưu mô để đánh lừa Fanxtap. Kết quả, anh chàng quý tộc, kỵ sĩ, hiện thân của chế độ phong kiến trong những ngày tàn lụi, bị hành hạ đủ thứ, bị bỏ vào sọt quần áo bẩn, bị quảng xuống sông, bị mọi người giả làm tiên trêu cho một mẻ.
Thế kỷ XVI ở Anh không những tạo nên được một Shakespeare, tác giả duy nhất trong kịch trường thế giới, là một tác giả bi kịch kiêm hài kịch vĩ đại. Nó còn tạo nên cơ sở cho những vở kịch của ông, ở đấy cái bi xen lẫn cái hài. Sự tan vỡ của thê’ giới hài kịch biểu lộ rõ rệt trong Chàng thương nhân thành Vơni, Timôn người Aten và trong Romeo và Juliet. Trong Chàng thương nhân thành Vơni ta bắt gặp những chàng thương nhân yêu đời, coi tiền như rác, trên đời chỉ biết có tình yêu và tình bạn. Antôniô, một thương nhân triệu phú thành Vơni vì muốn giúp bạn là Batxaniô mà phải vay tiền lão Sailôc, một người Do Thái với một điều khoản kỳ quặc: nếu đến hạn không trả được thì hắn sẽ được quyền lóc một cân thịt của chàng. Không may, chàng không kịp trả nợ. Trong cơn nguy khốn này, Porxia, người yêu của Batxaniô, cải trang nam giới, làm trạng sư để bênh vực Antôniô. Vở kịch kết thúc bằng sự đắc thắng của chủ nghĩa nhân đạo; Sailôc bị kết án mưu sát công dân Vơni và bị tịch thu gia sản. Hình ảnh Sailôc tay cầm con dao đòi xẻo thịt người lương thiện đã làm cho vở kịch mang màu sắc bi đát. Trong Tư bản, Mác gọi Sailôc là điển hình của xã hội tư bản và mọi xã hội có giai cấp.
Hài kịch của Shakespeare không có tác dụng to lớn đối với văn học bằng các bi kịch. Điều đó không phải do giá trị nghệ thuật của bản thân các tác phẩm, mà do chỗ xã hội sau Shakespeare đã khác. Để đấu tranh chống lại xã hội này, phải có những cách suy nghĩ khác. Goto, Puskin, Banzac, Xtenđan chú ý trước hết tới các bi kịch và các vở biên niên sử. Các nhà hài kịch sau này đi theo con đường của Môlie. Hài kịch Shakespeare đã dạy cho chúng ta biết con người có thể tự do và sung sướng như thê nào, nhưng con người chỉ biết thưởng thức đẩy đủ những vở kịch ấy khi họ thực sự tự do và sung sướng, tức là ở dưới chủ nghĩa xã hội.
Các vở bi kịch
Shakespeare đã để lại cho nhân loại một loạt bi kịch vĩ đại nhất về trình độ sâu sắc của tư tưởng, kịch tính của hành đông, tính hiện thực của nhân vật, phản ánh được cơn khủng hoảng sâu sắc và toàn diện về tư tưởng của một thời đại. Trước hết, đó là cơn khủng hoảng của ý thức hệ và văn hóa Trung cổ trước sự tấn công của tư tưởng nhân đạo. Nhưng khi thế lực phong kiến chấm dứt ở thế kỷ XVII thì cũng là lúc chủ nghĩa nhân đạo lâm vào bi kịch. Lý tưởng giải phóng cá nhân để hưởng thụ một cuộc sống đã tan vỡ trước một tiêu chuẩn mới: đó là cuộc chạy đua điên cuồng theo lợi nhuận, chà đạp lên tất cả những giá trị mà chủ nghĩa nhân đạo đã từng nêu lên: con người, tự do, hạnh phúc cá nhân.
Rômêô và Juliet (1595).mặc dầu có kết thúc buồn thảm nhưng vẫn còn là một vở kịch được viết với lòng tin say sưa vào sự toàn thắng của chủ nghĩa nhân đạo. Lần đầu tiên trong văn học nhân loại xuất hiện tình yêu mộc mạc, chân thực, ngây ngất của tuổi trẻ. Hình ảnh đôi lứa Rômêô và Juliet kiên quyết bảo vệ tình yêu, bất chấp mối thù đời đời của hai gia đình trung cổ, trân trọng gìn giữ từng khoảnh khắc của giờ hội ngộ, sẵn sàng hy sinh tất cả để giữ trọn lời thề thuỳ chung là một thành tựu tuyệt vời của vãn hoá Phục hưng. Nhân vật Mơkiuxiô, hiện thân của tư tưởng sống vui, thoải mái, là “gương mẫu của chàng thanh niên mã thượng của thời đại” (Puskin). Lôrân là một nhà tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa khoác áo thầy tu. Tất cả nói lên lòng tin tưởng vào cái mới, vào tương lai, một lòng tin tha thiết chân thành vào hạnh phúc của con người. Nhưng điều đó đã thay đổi khi ta gặp Hămlet.
Với Hămlet (1601), ta bắt gặp con người hoang mang trước cảnh tan vỡ của những giá trị làm thành ý nghĩa của cuộc sống. Chủ nghĩa nhân đạo đã nứt rạn tuy chưa phải là tan vỡ. Ân tượng toát ra từ tác phẩm là nhân thức “thời đại này thực là hỗn loạn” (Hổi I, cảnh 5), đó là một thời đại đảo điên (out of joint), trong đó con người lâm vào cảnh hoang mang và đau xót. Trong khi thấy “con người là một kiệt tác cao quý làm sao!” (Hổi II, Cảnh 2), Hãmlét vẫn không tìm ra ý nghĩa của cuộc sống: tình vợ chổng ư? Đó là sự lừa lọc. Tình yêu ư? Đó là sự giả dối. Ngay cả sống hay không nên sống, đó cũng là vấn đề. Bao tin tưởng ngày xưa đều tan vỡ: “Trời hỡi trời! Bao nhiêu lạc thú trên đời này đối với ta sao mà chán chường, nhạt nhẽo và vô vị đến thế!…. Cả thế giới là một ngục thất mà Đan Mạch lại là cái ngục thất ghê tởm nhất!…”.
Lần đầu tiên trên sân khấu nhân loại, ta bắt gập một con người phức tạp đến mức kỳ ảo, một tâm sự đau thương bị xâu xé giữa những tình cảm trái ngược, ta gặp con người luôn luôn muốn nhận thức và đánh giá lại mọi vấn đề của cuộc sống, luôn luôn cố gắng hành động có ý thức, muốn đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, công bằng hơn, xứng đáng hơn. Như Bêlinxki nói: “Mỗi lời nói của Hămlét là một mũi tên tẩm thuốc độc”. Hămlét mở đầu cho cả một nền văn học mang tính phê phán cuộc sống, tìm cách hành động cho xứng đáng với giá trị của con người trong một hoàn cảnh bế tắc, “hèn hạ và phát ngấy lên được”. Chính vì vây mà suốt mấy trăm năm nay ít có tác phẩm được nói đến nhiều như thế.
Ôtenlô (1604) tiếp tục Hămlét trong việc nêu lên sự tan vỡ cùa hạnh phúc con người khi con người trở thành nạn nhân của sự dối trá, lừa bịp. Ôtenlô là một con người mới, con người nhân đạo chủ nghĩa, “con người cao thượng nhất xưa nay do bàn tay con người dựng lèn” (Xuynbơc). Đexđêmôna cũng là một con người thời Phục hưng yêu đời, cởi mở, chân thành. Nhưng vì họ quá tin vào những hành vi dối trá của một tên hèn mạt là lagô nên đã bị lợi dụng và đã phá vỡ mất hạnh phúc của mình. Thực chất bi kịch ở đây biểu hiện ở chỗ sự cao thượng của tâm hồn đã bị cái ti tiện của nhân cách thao túng và lợi dụng. lagô là điển hình cho sự gian trá, ti tiên của những kẻ hám lợi thời tích lũy nguyên thủy của tư bản. Tấn bi kịch của Otenlô chính là sự tan vỡ của chủ nghĩa nhân đạo trước cuộc đời thực tại đầy mưu mô, xảo trá.
Quá trình tan vỡ của tất cả các “quan hệ phong kiến, gia trưởng thi vị” được thể hiện mạnh mẽ nhất trong Vua Lia (1605). Vua Lia là hình ảnh điển hình của thứ vua phong kiến Trung cổ: kiêu ngạo, hách dịch, xem quốc gia là tài sản riêng của mình. Trong cơn giận, Lia đã đem gia tài chia cho hai đứa con gái là Gônơrin và Rêgan vì chúng biết nịnh hót, và hất hủi cô gái út Cordelia, người con chân thành chỉ biết nói sự thực của lòng mình. Và sự trừng phạt đã đến. Lia bị đuổi ra khỏi nhà, đi lang thang trong đêm mưa bão. Bừng tỉnh, ông nhận ra được cái bất ông. vô lý của trật tự phong kiến, cuộc đời nhân dân đau khổ như thế nào, và ông đã thay đổi. 0 Vua Lia, không khí bi kịch được tạo nên bởi một loạt người gian trá, tàn nhẫn hơn lagô trong Ôtenlô (Gônơrin, Rêgan, Etmun) của thời tích lũy nguyên thủy, không từ một thủ đoạn nào (đuổi cha, giết anh, thông dâm…) để đạt được mục đích.
Đến Măcbet (1606), Shakespeare quay trở lại một chủ đề quen thuộc là vấn đề vương quyền, nhưng trong tình hình mới, ông đã nhân thức nó một cách sâu sắc hơn. Macbeth là một nhân vật về cơ bản giống như Richard III đã lên ngôi bằng mọi tội ác. Nhưng Macbeth không chỉ là tên ác quỷ khát máu mà còn là một con người. Macbeth là sự lên án một chế độ sống bằng ám sát, giết hại lẫn nhau, trong cảnh sợ hãi, kinh hoảng, đâu đâu cũng là kẻ thù, trong sự cãm phẫn của nhân dân. Trong bầu không khí rùng rợn này, chính những kẻ tàn ác cũng run sợ, nhưng càng run sợ chúng lại càng lao vào tội ác, chính nó bộc lộ được tâm lý của bọn bạo chúa.
Sự kết án chế độ độc tài được cụ thể hóa trong Côriôlanut (1608), viết sau vụ bạo động của nông dân năm 1607, và báo trước cuộc Cách mạng Anh năm 1642 – 1649. Toàn bộ vở kịch diễn ra trong cuộc đấu tranh trực diện giữa quần chúng và quý tộc. Nó vạch rõ những âm mưu lừa gạt dân chúng của quý tộc: dọa nạt, phỉnh phờ, tuyên truyền lừa gạt, lấy chiến tranh đê’ giải quyết các mâu thuẫn trong nước, và khi mọi mưu mô đều thất bại thì quý tộc bắt tay với giặc “với sự hung dữ của quỷ sứ”. Nó đánh dấu một sự chín muồi về tư tưởng.
Người ta thường gọi các vở bi kịch từ Hămỉet đến Côriôlanut mang màu sắc bi quan. Thực ra thì không phải. Là một nhà văn hiên thực, Shakespeare vạch rõ tấn bi kịch của cuộc sống, thể hiện ở chỗ mọi cái gì làm thành ý nghĩa cuộc sống đều bị chà đạp tàn nhẫn. Ai còn ôm ấp những tư tưởng ngây thơ của chủ nghĩa nhân đạo (Hamlet, Othello, Đexđêmôna, Corđêlia…) đều bị lừa dối một cách chua chát. Nhưng Shakespeare không phải là một nhà tư tưởng bi quan. Ông không tin các thế lực đen tối sẽ thắng mãi mãi. Ông chống lại thái độ xem cuộc sống là phi lý. Trung thành với tư tưởng nhân đạo của nhân dân lao động, ông đòi hỏi tất cả những tên bạo quân, độc tài (Xêdar, Klaudiut, Côriôlanut, Mãcbet) những tên giảo hoạt, tàn nhẫn (lagô, vợ Măcbét, Gônơrin, Rêgan, Etmun) phải bị trừng phạt xứng đáng; ông đòi hỏi những con người bị lừa dối (Ôtenlô, vua Lia) phải thấy rõ sự thực và hối hận về sai lầm của mình. Ông đòi hỏi kết luân của kịch phải đem đến một thay đổi mới mẻ hơn trước đối với cuộc đời của quần chúng: Hămlet chết đi an lòng vì biết người thay thế mình, Fortinbrat, sẽ là một vị minh quân. Như vậy, tư tưởng chủ đạo của Shakespeare, dù ở hài kịch hay ở bi kịch vẫn là tư tưởng lạc quan, chứ ông không phải là con người bi quan như nhiều học giả nhận định.
Từ 1610 trở đi, các vở kịch của ông vẫn đầy tính chất phê phán gắt gao đối với hiện thực, đã khoác một bộ áo huyền thoại. Câu chuyện mùa đông (1610) chẳng hạn, hiền lành như một câu chuyện cổ. ở đây có một ông vua hết sức yêu vợ (Lêôntet) nhưng hay ghen làm cho hoàng hâu (Hecmion) phải oán giận mà chết. Có một cô công chúa (Perdita) bị vua vứt bỏ ở một nơi xa vắng rồi lớn lên trong gia đình một người chăn cừu. Cố nhiên phải có một hoàng tử (Florizen) lạc đến nơi hẻo lánh này và yêu cô gái chăn cùu hơn yêu ngai vàng. Và cuối cùng là đại đoàn viên: cô công chúa trở về với người cha hối hận và nhà vua càng vui mừng hơn khi nghe tin vợ vẫn còn sống. Trong câu chuyện này, ta gặp một người chồng kiểu Ôtenlô, một chàng thanh niên kiểu Rômèô, một cô thiếu nữ kiểu Juliet, nhưng câu chuyện lại đượm vẻ mơ màng.
Các học giả thường nói đến vở kịch Cơn bão (1612) như một thứ di chúc Shakespeare để lại cho đời. O đây ta gặp một công tước (Prôxpêrô) vì ham nghiên cứu pháp thuật nên bị em trai (Antôniô) thông đồng với vua thành Náp cướp mất vương quốc, bỏ trên một chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả cùng cô con gái nhỏ (Miranda), rồi dạt vào một hoang đảo. Nhờ biết pháp thuật, ông đã gây nên một cơn bão đưa vua Náp, Antôniô và con trai y là Fecdinang đến hoang đảo. Cơn bão qua, cuộc đời lại sáng: Mirranđa và Fecdinang yêu nhau, Antôniô và vua Náp hối hân, Prôxpêrô trở vé làm công tước xứ Milan sau khi đã bẻ gãy gây thần.
Phải chăng đây là nơi kí thác tâm sự? Pháp sư Shakespeare, sau khi gây nên bão táp cũng như bao cảnh thần tiên trong kịch trường, đến đây cũng bẻ gẫy gây thần rút về Xtratfo và lặng lẽ chết. Nhưng vẫn có một điều khác: cơn bão của pháp sư Prôxpêrô chỉ kéo dài một ngày, rồi sau đó mọi việc lại như cũ. Còn cơn bão do pháp
sư Shakespeare gây nên trong lòng người thì khác. Nó kéo dài bốn thế kỷ nay và sẽ kéo dài mãi hễ còn có kịch, có người tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống. Những hình tượng ông sáng tạo, những tư tưởng ông gợi mở, phương pháp nghệ thuật mà ông đề xướng vẫn sống mãi trong lòng người và ngày càng lan rông.
Tư tưởng trong sáng tác của William Shakespeare
Vấn đề lập trường tư tưởng của Shakespeare đã gây nên nhiều cuộc tranh cãi mấy thế kỷ nay vẫn chưa đi đến một kết luân thống nhất. Như Anixt nhân xét, người thì cho ông là quân chủ, người thì cho ông là cộng hoà, người cho ông có khuynh hướng tân giáo. Có người lại bảo ông theo khuynh hướng gia tô giáo; người cho ông là một nhà có tư tưởng thần bí Trung cổ, có người trái lại cho ông là nhà nhân đạo chủ nghĩa thời Phục hưng với tất cả mọi hạn chê’ của thế giới quan tư sản. Một điều đặc biệt là người nào cũng có thể lấy trong tác phẩm của Shakespeare vô số dẫn chứng đè’ bênh vực cho lập luận của mình, và kết quả là có những cách giải thích Shakespeare khác nhau, những c ách diễn kịch Shakespeare khác nhau, thậm chí những cách dịch Shakespeare khác nhau, làm cho vấn đề đã phức tạp lại càng phức tạp.
Dưới ánh sáng của khoa Shakespeare học của Liên Xô, chúng ta đã tim dược đúng đắn thực chất tư tưởng của Shakespeare. Căn cứ vào những công trình khảo sát sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà Shakespeare Liên Xô đã nêu rõ sáng tác Shakespeare là một hiện tượng nhân dân sâu sắc, thuộc vào những lực lượng tiền tiến của xã hội Anh, của nhân loại tiến bộ. Nhân dân tỉnh ấy thể hiện ở chỗ sáng tác của Shakespeare đã tiếp thu tất cả những yếu tố ưu tú của văn hóa dân tộc Anh, nó thể hiên ở trong thái độ dân chủ của tác giả và cái nhìn của tác giả đối với quần chúng. Không những thế, nó còn thể hiện đặc biệt ở chõ Shakespeare không những chống phong kiến phản động mà còn chống lại cả những bất công xuâ’t hiện trong thời tích lũy nguyên thủy của tư bản.
Anixt nói: “Nhân dân tính của Shakespeare tóm lại ở chỗ ông là người biểu hiện những xu hướng dân chủ của các tầng lớp xã hội, mặc dầu trong những kết luận xã hội ông không vươn tới được một cái nhìn cách mạng vào thế giới”.
Shakespeare là người đại biểu vĩ đại nhất của văn học Phục hưng. Ớ ông, những tư tưởng nhân đạo của chủ nghĩa Phục hưng đã tìm thấy sự thể hiện rực rỡ nhất.
Shakespeare đã tiếp thu được tinh hoa của thời Phục hưng ở điểm cố gắng không biết mỏi để tìm hiểu con người. Trước thời Phục hưng cách hiểu về con người rất khuôn sáo và công thức, dù là ở triết học, thần học Hy Lạp, thẩn học Thiên Chúa giáo. Với Shakespeare và phải nói cả với Môngtenhơ, câu chuyện con người trở thành một đề tài mênh mông, không có giới hạn, biên giới khá mơ hồ và không rõ rệt. Trong con người không chỉ có tư tưởng mà còn có những khát vọng, những ham muốn, những tình cảm. Cố gắng làm thành con người chính là cái lý tưởng mới của giai đoạn lịch sử này. Hămlét nói về cha mình: “Ông ta là một con người trong ý nghĩa toàn vẹn của danh từ” (Hổi I, Cảnh 2). Vua Lia hỏi Kentơ: “Anh là ai?” và Kentơ đáp: “Con người” (Hồi I, Cảnh 4). Các nhân vật tích cực của ông không có tham vọng làm anh hùng, vua chúa, mà chỉ có ham muốn làm thành con người. Chính vì cái ham muốn đơn giản ấy mà họ hành động như con người phải hành động, yêu như con người phải yêu, chiến đấu như con người phải chiến đấu và chết như con người phải chết. Tư tưởng chủ đạo của nhà tư tưởng thiên tài Shakespeare chính là cái nét lôi cuốn bất kỳ ai trong lòng ôm ấp cái hoài bão sống thành người.
Khi nói đến văn hoá vầ nghệ thuật của Hy Lạp cổ đại, Mác có bảo đó là phản ánh tuổi thơ ấu của nhân loại. Thời Phục hưng cũng là một thời kỳ có ý nghĩa to lớn. Nó là một thời đẹp đẽ, vì con người cảm thấy mình chững chạc, sung sức, trước một tiền đồ mênh mông. Nó gạt bỏ thứ giáo lý của nhà thờ trung cổ cho “cuộc sống là một thung lũng nước mắt”, cái cười là tôi lỗi vì Kinh Thánh dạy: “Dưới hạ giới này ai cười nhiều thì sẽ khóc nhiều ở thế giới bên kia”. Các nhà nhân đạo chủ nghĩa đã đưa ra một quan niệm mới về cuộc sống. Bản chất cuộc sống là vui, hạnh phúc, là cái có thực. Con người phải biết cười. Và cho đến nay vẫn vang vọng tiếng cười ngỗ ngược của Bôcatxơ, tiếng cười ngạo đời của Rabơle, tiếng cười ròn rã của Xecvantec.
Nhưng thử hỏi ở đâu mà cuộc sống tưng bùng, mà con người thoải mái, mà cái cười hồn nhiên, đắc thắng như trong các vở hài kịch của Shakespeare? 0 đâu có con người tự hào khoan khoái, tin vào tương lai, tin vào mình như trong Những bà vợ vui vẻ ở Uynxo, Giấc mộng đêm hè. O đâu có cái không khí trong sáng tươi mát như trong Đêm thứ mười hai. Điều mới mẻ mà Shakespeare đem đến cho chúng ta là cuộc đời này rất vui và đáng sống, dù cho tạm thời cái vui phải nhường bước trước thực tế xấu xa, nhưng cái vui, cái đẹp không bao giờ chết được. Chính quan niệm này đã sản sinh ra một phương pháp nghệ thuật mới của ông là phối hợp cái vui với cái buồn trong những vở kịch buồn thảm nhất. Đây không phải là “gượng cười”, “đổi sầu làm vui”, hay “tìm cái vui để lẩn tránh cái thực xấu xa trong cuộc sống”. Cái vui này xuất phát từ chính nghĩa, từ lẽ sống, không phải từ một cách “ngụy biện” để tự lừa dối mình.
Trước Shakespeare, văn học từ lâu đã nói đến đàn bà. Nhưng so với những người đàn bà từ trước đến giờ, các nhân vật nữ của Shakespeare thuộc một phạm trù khác. Trước khi xuất hiện Juliet đã có Mêđê, Antigon, Feđrơ của Hy Lạp, Điđô của La Mã, và Bêatrixơ, Lôra của thời Phục hưng Ý. Nhưng phụ nữ Hy Lạp và La Mã là những người chịu đựng, họ đón lấy tình yêu như đón lấy một thứ định mệnh sẽ phá hoại tất cả nhưng họ không sao cưỡng lại được. Những người đàn bà trong thời Phục hưng Y tuy tràn đầy chất men của cuộc sống nhưng vẫn còn mang tính lý tưởng hoá chưa thoát ra khỏi hào quang Gia tô giáo… Và sau Juliet, những cô Simen, Feđrơ, Juni… vẫn là những người dè dặt. Họ sợ thành kiến, họ bị dục vọng thúc đẩy nhưng không dám chịu trách nhiệm về các hành động của mình. Muốn tìm được người đàn bà gan góc, bướng bỉnh, luôn luôn chiến đấu, thà chết không chịu thoả hiệp, hạng người đàn bà sinh ra để làm chủ cuộc đời mình – rất phiền cho xã hội phong kiến – và nhất là hành động không phải vì bị “con ma dục vọng xô đẩy”, trái lại, họ hành động với ý thức đầy đủ, sáng suốt trong sự lựa chọn – tiêu biểu cho lý trí chiến thắng – thì phải tìm ở Shakespeare, và ở Shakespeare không phải chỉ có một hai người mà cả một quần tính sáng ngời những con người như thế. Có thể nói một đề tài căn bản của Shakespeare là cuộc đấu tranh của thế hê mới khao khát tự do, mà hiện thân của nó là những cô gái yêu đời, chống lại thế hệ già cỗi thể hiện ở những người cha độc doán. Và bao giờ Shakespeare cũng đứng về thế hệ trẻ, ca ngợi họ không tiếc lời. Juliet kiên quyết lấy Rômêô dù biết Rômêô là con một gia đình thù địch với gia đình mình; Corđêlia nói thẳng với cha rằng nàng không thể yêu cha bằng chổng và không sợ vì thế mà mất gia tài; Con gái vua Ximbơlin chống lại cha và dì ghẻ, kiên quyết lấy chàng mồ côi Pôtxtumut. Chỗ làm họ sáng ngời tinh thần nhân đạo chủ nghĩa không phải là cái dục vọng, tình yêu tha thiết của họ – cái đó trước đây đã có và Shakespeare cũng khó lòng bằng ơripit – Cái chỗ họ lôi cuốn ta ngày nay và mãi mãi sau này là họ có ý thức rất sáng suốt về sự lựa chọn, họ biết họ làm đúng và chỉ có thể làm thế mà thôi. Cách làm ấy đối với họ là thể hiện cái mà Shakespeare gọi là “con người trong ý nghĩa toàn vẹn nhất của danh từ” và đặc biệt họ không hề có môt phút hối hận về việc lựa chọn của mình.
Vì yêu đối với họ không phải là lao mình theo định mệnh như trong bi kịch cổ đại, mà là phải khắc phục hoàn cảnh, chiến thắng trở lực, cho nên họ rất sáng suốt, tháo vát, kiên quyết. Do đó, khi đã khoác áo đàn ông (biện pháp duy nhất của phu nữ lúc đó để làm một công việc xã hội) thì họ trở thành những “trang nam nhi” kiệt xuất. Porxia cải trang làm trạng sư đã cứu được người bạn của người yêu (Chàng thương nhân thành Vơni)\ Julia cải trang thành đàn ông để theo dõi chồng đã sớm quên mình chạy theo vợ bạn (Hai chàng thành Vêron)-, Viôla cải trang làm người hầu của công tước Orxinô (Đêm thứ mười hai)… Hạnh phúc chỉ đến với họ bằng đấu tranh và phần lớn họ đã tìm thấy hạnh phúc. Và dù cho hạnh phúc ấy ngắn ngủi (Đexđêmôna, Juliet) họ vẫn làm và sẩn sàng đón nhận cái chết chứ không chịu đầu hàng. Trái lại, những ông cha Trung cổ kia đều thất bại. Hoặc họ tỉnh ngộ (vua Lia), hoặc họ hối hân (cha mẹ Rômêô và Juliet), hoặc họ đành phải chấp nhạt cái sự thực đã rồi (cha Đexđêmôna), nhưng với tất cả quyền lực của họ, họ không sao kéo lùi được xã hội. Ôphêlia trong Hămlet gần như là cô gái duy nhất phục tùng cha một cách vô lý, vì vậy cô không được hưởng một giờ hạnh phúc. Chính vì vây mà trong văn học nhân loại chưa ai tạo được nhiều người đàn bà đẹp đẽ, đa dạng, hấp dẫn bằng Shakespeare Juliet, Ôphêlia, Hecmion, Porxia, Imôgien, Viôla, Miranda, labenla, Conxtanxơ. Rôzalinđơ V..V…
Vốn có mot cái nhìn nhân đạo đối với con người. Shakespeare đã trút bỏ được những thành kiên về màu da, chủng tộc, đặc biệt không kể đến địa vị xã hội của nhân vật.
Trong khi bọn buôn người nước Anh đang bắt người da đen ở Châu Phi đem bán làm nô lẽ, va một số nhà tư tưởng lúc bấy giờ còn đang băn khoăn không biết người da đen có hnh hồn hay không, thì Shakespeare đã xây dựng chàng da đen Ôtenlô thành môi con người cao quý, đẹp đẽ. Trong khi chung quanh Ôtenlô là một bầu không khí ghen ghét, đê tiện, thể hiện ở hai nhân vật đáng ghét là lagô và Brabanxiô, ông đã có một cái nhìn đúng đắn vào Ôtenlô. Đó là cái nhìn của Đexdẽmôna. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare biến Ôtenlô thành một con người cao thượng, anh hùng ăn nói lịch sự, cư xử trang nhã, văn minh. Con người này khòng thể chịu đựng sự dối trá đã giết chết người yêu vì “nếu để nàng sống, nàng còn sẽ lừa dối nhiều người khác nữa”. Cuối cùng khi biết rằng người yêu vô tội, chàng đã từ bỏ cuộc đời một cách sung sướng vì đã lấy lại được niềm tin đã mất. Chàng là con người da đen đẹp nhất trong văn học.
Thành kiến đối với người Do Thái cũng là một thành kiến mà giai cấp tư sản nuôi dưỡng và lợi dụng. Trái lại, Shakespeare mạt sát Sailôc chỉ vì y cho vay cat cổ chứ không phải là người Do Thái. Tác giả để cho Sailôc bênh vực người Do Thái bằng những lời bất hủ:
“Ta là người Do Thái! Người Do Thái không có mắt sao? Người Do Thái không có tay, không có cơ quan, hình thù, giác quan, cảm xúc, dục vọng sao? Hắn không phải cùng ăn một thứ đồ ăn như nhau, cũng bị thương bởi những vũ khí như nhau, cũng mắc những bệnh như nhau, cũng chữa bằng những cách chữa như nhau, mùa hạ cũng nóng và mùa đông cũng lạnh như nhau, chẳng khác gì những người Cơ Đốc giáo sao? Nếu anh đánh vào người chúng ta thì ai mà chẳng chảy máu? Nếu anh cù chúng ta thì ai mà chảng cười? Nếu anh bỏ thuốc độc giết chúng ta thì ai mà chẳng chết? Nếu chúng ta giống anh về tất cả mọi mặt thì ta cũng giống anh về mặt này: Khi một người Do Thái bị một người Cơ Đốc giáo làm nhục thì hắn chịu sự nhẫn nhục để làm gì? Để trả thù chứ để làm gì nữa?”.
Theo nhà phê bình Xmirnôp thì đây quả là lời bênh vực quyền bình đẳng của người Do Thái hùng hồn nhất có thể tìm thấy trong văn học thê’ giới.
Nhưng cái vĩ đại của Shakespeare không chỉ ở những điểm ấy, mà trước hết ở chỗ ông là người đầu tiên trong văn học có một cái nhìn sâu sắc về quần chúng lao động, đồng thời là người đầu tiên biết phê phán xã hội tư bản. Đây là hai điểm then chốt làm cho thiên tài Shakespeare trở thành “nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử cân đại” như lời đánh giá của Êmecxơn.
Trong các vở kịch của Shakespeare, số phận của nhân dân và vai trò của họ là một trong những vấn đề trung tâm làm người ta chú ý nhất. Đây là một điều khác hẳn trước. Trong các vở kịch trước của ông, nhất là trong bi kịch, người ta chỉ tập trung chú ý tới các nhân vật cao cấp (vua, hoàng tử, công chúa, quý tộc), còn quần chúng, nếu có, chỉ đóng vai trò tôi tớ tầm thường, hết sức phụ thuộc, và họ không phải là những người tự do, dám phát biểu ý kiến của mình, dám xuất hiện như họ xuất hiện trong thực tế. Trái lại, trong kịch Shakespeare họ làm thành “cái bối cảnh Fanxta” (lời của Enghen) trên đó nổi bạt các vấn đề liên quan tới toàn bộ xã hội.
Có nhiều ý kiến đối lập nhau về vấn đề then chốt này. Các nhà phê bình tư sản cho rằng Shakespeare đã không lý tưởng hoá quần chúng, trái lại, nhận thấy họ thiếu học vấn, nhiều thành kiến, không hiểu rõ nhiệm vụ lịch sử của mình, nhiều khi bị bọn bạo chúa mị dân lợi dụng, mua chuộc đến mức đi ngược lại quyền lợi của mình. Do đó, họ cho Shakespeare là phản dân chủ. Họ thường viện dẫn trường hợp nhân dân bị lừa dối trong Xêdar và Côriôlanut’. Nhân dân vừa mới ủng hộ lãnh tụ của họ là Brutut, nổi lên giết tên bạo chúa Xêdar, thì ngay sau đó chỉ sau một bài diễn văn của Antôni, nhân dân đã bỏ theo Antôni đánh bại Brutut, tức là chống lại chính quyền lợi của bản thân họ. Cũng vậy, trong Coriôlanut, ở Hồi I họ nổi lên đòi giết Côriôlanut thì ở Hồi II, họ dã nghe theo lời thị dân của bọn quý tộc tán thành cho Côriôlanut làm chấp chính quan.
Nhưng Mac và Enghen đánh giá cao chủ nghĩa lịch sử và chủ nghĩa hiện thực của Shakespeare trong cách miêu tả quần chúng. Anixt nói rất sâu sắc: “Tính nhân dân của nhà văn hoàn toàn không phải ở chỗ cần phải biểu hiện bằng cách lý tưởng hoá quần chúng nhân dân. Chờ đợi một nhà nghệ sĩ miêu tả nhân dân không phải như họ tổn tại trong thực tế mà như nhà văn muốn miêu tả họ là một điều ngây thơ. Chỉ có khi nào người ta bỏ quên những điều kiện thực tế của sự tổn tại của quần chúng nhân dân trong giai đoạn bị đàn áp giai cấp, thì người ta mới có thể chờ đợi nhà vãn miêu tả nhân dân là sáng suốt, không có thành kiến, thiên vị, nhận thức hoàn toàn rõ ràng về quy luật của cuộc sống…”.
Shakespeare đã miêu tả nhân dân đúng như trong thực tế thế kỷ XVI -XVII, vừa mới thoát khỏi ách phong kiến lại rơi ngay vào ách tư bản, bị lừa dối và thất học. Trong quá trình sáng tác, ông chưa tán thành những cố gắng của nhân dân để tự mình giải quyết lấy vân mệnh của mình một cách độc lập. Cũng vậy, phải có một thời gian nữa thì kinh nghiệm lịch sử mới vạch cho nhà vãn thấy sự tất yếu và cần thiết của một cuộc cách mạng tư sản. Đó là những hạn chê’ lịch sử đối với ông.
Nhưng Shakespeare vẫn là một nghệ sĩ thấm nhuần tư tưởng dân chủ sâu sắc, vì ông hết sức quan tâm tới số phận của quần chúng lao động. Ông đã vẽ ra trước mắt mọi người những bức tranh trung thành về cuộc sống của quần chúng và cuộc đấu tranh của quần chúng để thực hiện các quyền lợi của mình. Những con người bình thường mà ông miêu tả có một đặc điểm tiêu biểu: họ dám nhân xét táo bạo, dám tự do quyết định hành động, và dám hy sinh cho điều mà họ cho là chân lý và công bằng, tuy có lúc họ vẫn thiếu sáng suốt nên dễ bị lợi dụng. Trong kịch Shakespeare, quần chúng không phải là những kẻ thụ động, chịu đựng, chỉ biết vâng vâng dạ dạ, than thở, kêu la mà trái lại, họ là những người hành động, khi vui thì hết sức rôm rả, biết ăn nói bông đùa, hài hước đầy thi vị, mánh qué bằng những kho tàng văn học dân gian của họ, khi giận thì không biết sợ uy quyền nào hết. Xuất thân từ trong quẩn chúng, đã từng lao động vất vả để sống, ông hiểu rất sâu tâm lý và nguyện vọng của quần chúng. Ông đã nói lên được nguyên vọng khao khát hạnh phúc của nhân dân Anh vừa thoát khỏi ách chuyên chế phong kiến gia trưởng. Tuy họ đã rơi vào ách nô lệ tư bản chủ nghĩa nhưng họ vẫn không mất ý thức về quyền tự đo của họ, họ muốn thành con người thực sự tự do trong xã hội. Đặc biệt họ không muốn quay lại quá khứ mà muốn tự do ngay trong hiện tại dù cho điều này không khỏi không tưởng.
Quan điểm này đã giúp tác giả xây dựng được những vở hài kịch và những vở biên niên sử vô song. Ớ trong những vở bi kịch, vai trò của quần chúng cũng rất rõ. Trong Rômêô và Juliet, nhân dân thành Vêrôna xông ra cản trở không cho hai gia đình quý tộc chém giết nhau, những vở kịch Côriôlanut và Juliet Xêdar diễn ra trong sự va chạm trực tiếp giữa quần chúng và quý tộc. Trong hai vở kịch này nhân dân là những người yêu tự do, giàu lòng hy sinh khi họ thấy lẽ phải. Nhưng đúng như trong thực tế đương thời, nhân dân vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của ý thức hê của giai cấp thống trị. Đúng như Brutut nói, chàng đã giết được Xêdar, nhưng không giết được “con ma Xêdar”. “Con ma Xêdar” biểu hiên ở những nhân thức sai lầm của nhân dân về tài năng và công lao của Xêdar, nó thể hiên ở những thế lực của quý tộc vẫn còn trong xã hội Shakespeare đã miêu tả Brutut thành con người mang tư tưởng cao cả về quyền tự do của nhân dân nhưng vì không thấy rõ rằng kẻ thù của nhân dân không chỉ là Xêdar mà còn là những thế lực dân chủ đã ủng hộ Xêdar, do đó chàng đã để Antôni lợi dụng lôi cuốn nhân dân đánh lại mình. Tinh thần dân chủ ở đây thể hiện ở chỗ tác giả đã nêu rõ được giá trị thực của Xêdar. Nhưng Shakespeare sáng suốt đã nhân thấy Xêdar, con người được lịch sử La Mã ca ngợi là thiên tài lớn nhất về quân sự và chính trị chỉ là một tên bạo chúa, ham tâng bốc, chỉ khéo lợi dụng nhân dân. Trái lại, Brutut được Shakespeare xây dựng thành một con người lý tưởng, thiết tha bảo vệ công lý và tự do của nhân dân, không sợ bất cứ trở lực nào và tuyệt đối vô tư, hy sinh cho mục đích cao cả ấy. Tư tưởng dân chủ ở đây cũng thể hiện ở cách đánh giá quần chúng, sở dĩ Xêdar rồi Brutut làm được những việc oanh liệt chẳng qua là được sự ủng hộ của quần chúng. Cái nhìn ấy vào thời của ông thực là phi thường. Như Ilinxcaia nhân định, tình hình chính trị, thời sự của nước Anh thời Shakespeare đã được đánh giá rõ rệt nhất trong Côriôlanut. Nó là một vở kịch chính trị báo trước cuộc cách mạng tư sản sẽ đến. Ngay từ hổi đầu, toàn bộ lực lượng xã hội đã bước lên sân khấu: quý tộc và bình dân đã ở trong cảnh đối lập một mất một còn. Tác giả vạch trần những tư tưởng xấu xa của bọn quý tộc, tâm lý căm thù nhân dân, muốn thẳng tay trừng trị nhân dân, nhưng trước một lực lượng đã đoàn kết lại chung quanh các hộ dân quan cho nên phải giở trò mị dân để hoà hoãn tình thế. Đứng trước sự căm phẫn của nhân dân đòi giết Côriôlanut, quý tộc hoảng sợ phải bày mưu cho Côriôlanut “quỳ xuống”, “xin lỗi nhân dân” để sau này tìm cơ hội phục thù. Đến khi mọi mưu mô xảo trá đều bị vạch trần, quý tộc trở mặt, bắt tay với giặc. Nhân dân tuy căm ghét Côriôlanut nhưng thấy y có công lớn với La Mã, lại “khiêm tốn” ra van xin nhân dân bỏ phiếu cho mình, cho nên trong chốc lát họ có thể quên kẻ thù giai cấp, cho Côriôlanut là ân nhân của mình và bỏ phiếu cho Côriôlanut làm chấp chính quan. Điều này cho thấy ông nhân thức thực tế sâu sắc như thê nào. Vì Côriôlanut là một tác phẩm đầy tính thời sự, cho nên nhiều nhà học giả cho đó là một vở kịch châm biếm chính trị khoác bộ áo bi kịch để che mắt kiểm duyệt. Bơcna Sô gọi nó là “vở hài kịch vĩ đại nhất của Shakespeare”. Thái độ thông cảm với những đau khổ của nhân dân biểu lộ rõ rệt trong Vua Lia mà Ilinxcaia gọi là “vở bi kịch nhân dân nhất thời Phục hưng”. Nó vạch rõ một quá trình đau khổ và kéo dài đã khiến cho một con người quý tộc, độc đoán, đầy những ảo tưởng về giá trị và sứ mệnh của mình trở thành một người gần gũi với nhân dân. Sau khi chia giang sơn cho hai con gái, Lia bị hai con gái đuổi ra khỏi nhà rồi gia nhập hàng ngũ những người lang thang của thời đại. Chính hoàn cảnh này đã làm cho Lia mở mắt. Sự tàn nhẫn bất công của hai cô con gái Gônơrin và Rêgan đối với ông chỉ là một trong muôn ngàn biểu hiện của quan hệ xã hội giữa những con người có quyền và những kẻ mất quyền. Lia thấy được tất cả cái tàn nhẫn của một xã hội chỉ chạy theo tiền tài, danh vọng, dìm mọi quan hệ cha con, anh em, vợ chồng “trong cái làn băng giá của sự tính toán ích kỷ” (Mác). Trên bước đường lưu lạc, Lia lại gặp những con người lang thang khác cũng bị cướp đoạt tài sản và bị đuổi đi. Cứ thế, trên sân khấu xuất hiện những con người không manh áo che thân, không nhà không cửa, hình ảnh hiện thực của nhân dân lao động Anh đang bị cướp giật, bóc lột, xua đuổi, dồn vào làm việc ở các xí nghiệp mà pháp luật trắng trợn và tàn nhẫn chỉ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp mới đang lên cầm quyền.
Quan điểm quần chúng của Shakespeare đã được kết tinh vào một nhân vật đặc biệt thường thấy trong kịch, nhưng ông đã hoán cải tất cả, biến thành một nhân vật sinh động và vô cùng hấp dẫn, đó là anh hề. Anh hề là nhân vật có thực trong xã hội phong kiến. Vua chúa phong kiến nuôi anh để bông đùa, kể chuyện, ca hát đặng giải trí cho họ. Địa vị của anh hết sức thấp và anh thường là người thất học. Trong hài kịch Trung cổ anh hề thường xuất hiện nói văi câu ngớ ngẩn để khán giả cười trong khi các diễn viên còn bân. Còn trong kịch Shakespeare thì khác. Anh hề là đại diên cho trí tuệ của quần chúng, miệng anh nói toàn ca dao, tục ngữ, dân ca. Tác giả dành cho anh những lời thi vị nhất, sâu sắc nhất. Anh không xuất hiện để “cù” khán giả. Nhưng lúc nào anh xuất hiện là lúc ấy cần phải có một sự đánh giá hiện thực, cần phải có sự suy nghĩ, lý giải thực chất của cuộc sống, cần có những lời đúng với lẽ phải. Với một xã hội đang chuyển từ phong kiến sang tư sản, những lời dúng với lẽ phải là những lời chua chát cho nên những lời của anh hề thường làm người ta đau xót hơn là làm người ta cười. Anh là một người đầy tình cảm (anh hề Laoxơ với con chó ghẻ của anh ta, anh hề của Lia đối với chủ), có nghề nghiệp, tư tưởng cao thượng. Chính vì vây, những đoạn anh hề hay những nhân vật phụ (như những người đào huyệt, thợ thủ công, nông dân, binh sĩ…) xuất hiện thường không phải là những chỗ thừa như nhiều người quan niệm, mà đó là những cảnh rất quan trọng để hiểu sự đánh giá cùa tác giả.
Sự phê phán xã hội tư bản được thể hiện trực tiếp nhất trong việc phân tích bản chất của đổng tiền. Mác nói “Shakespeare đã tả rất rõ bản chất của đổng tiền”. Nói vài câu sáo ngữ về đống tiền là điều ai cũng làm được, bởi vì từ lâu đổng tiền đã đóng một vai trò nhất định trong xã hội. Nhưng vạch được bản chất của nó, thấy được sức tha hoá xã hội của nó là một điều rất khó. VỞTỈmôn người Aten là một cáo trạng hùng hồn về những tác hại của đồng tiền. Timôn là một người giàu có hết sức rộng rãi, đã phung phí hết cả gia tài và kết quả là mọi người trở mặt, lãnh đạm đối với anh ta. Chán ghét mọi người, Timôn ở ẩn trong một hang đá, ăn rễ cây, tự tay đào lấy huyệt mình, nhất định không tiếp xúc với người đời. Không may cho anh ta, anh ta lại moi được một kho vàng, và mọi người lại xô nhau đến. Timôn ném vàng vào mặt họ và nói: “Vàng, hoàng kim óng ánh quý giá vô ngần! Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để đổi trắng thay đen, biến xấu thành tốt, biến kẻ gian thành người ngay, hèn hạ thành cao sang, già cả thành trẻ trung, khiếp nhược thành dũng cảm! Đó là cái gì, hỡi các đấng thần linh bất tử! Đó là một vật làm cho các tăng lữ của các vị và các đệ tử của họ ngoảnh mặt làm ngơ không nhìn bàn thờ các vị. Tên nô lệ màu vàng ấy đã xây dựng và phá huỷ tôn giáo của các vị, làm cho những kẻ độc ác được hưởng phước lành, làm cho những kẻ ghê tởm được tôn sùng, đặt bọn trộm cắp lên ghế nguyên lão, khiến bọn chúng được hưởng chức tước, danh vọng và được người quỵ lụy. Nó làm cho người goá bụa tàn tạ trẻ lại thành cô dâu mới. Thôi đi! Đồ đáng đày vào địa ngục, đồ đĩ của loài người!…”. Mác rất thích đoạn này và đã giải thích nó như sau trong Bản thảo về các vấn đề kinh tế và triết học:
“Shakespeare vạch rõ nhất hai đặc điểm của đồng tiền:
1- Đồng tiền là vị thần linh mà người ta có thể trông thấy được, làm biến đổi ngược lại mọi đức tính của loài người và của tự nhiên, làm lẫn lộn và đổi trắng thay đen mọi sự vật, hàn gắn những cái không thể hàn gắn được.
2 – Đồng tiền là con đĩ của cả thế giới, là tay mối lái của hết thảy mọi người và hết thảy mọi dân tộc”.
Shakespeare không chỉ nói lên nhận định của mình về bản chất của đồng tiền qua một vài nhận xét. Ông đã xây dựng nhiều vở kịch trên sự phân tích đúng đắn và thiên tài này. Ta chỉ cần xem cách ông xử lý những nhân vật tiêu cực như Sailôc, lagô, Etmun, Gônơrin, Rêgan…
Sự xuất hiện những nhân vật này là một hiện tượng đầy ý nghĩa. Từ lâu văn học nhân loại đã có những kẻ gian trá, giảo hoạt, vô liêm sỉ. Nhưng bọn này đều hành động lén lút, tự che đậy bằng những áo khoác đạo lý có sẵn của thời trước. Họ chỉ
mới là những tên ngụy biện, điều nhan nhản trong mọi xã hội. Phải đến Shakespeare mới xuât hiện những tên “gian ác triết gia”. Risa III, lagô… không phải là những con quỷ tầm thường, mà là một thứ “triết gia” môn đệ của Makiaven, Bâycơn. Với sự xuất hiện của thê’ lực đồng tiền, một thứ “luân lý” mới, tư sản, xuất hiện. Đó là sự tôn thờ sức mạnh thô bạo của võ lực, của tiền tài, sự đề cao của hành động gian trá, mua chuộc, phản bội, ám sát. Mọi quan hệ cha con, vợ chồng, bè bạn đều mất hết giá trị. Vô liêm sỉ, trắng trợn, tàn nhẫn, vô luân lý, là con đường mới vạch ra cho ai muón thành đạt. Lý trí phải thắng mọi tình cảm. Chính cái “đạo lý” tàn nhẫn này đã giúp vô số tên ngu dốt thành thông thái, hèn nhát thành dũng cảm, độc ác thành từ thiện và thấp hèn thành cao sang. Đó là những con quỳ, nhưng là những con quỷ “lộng lẫy”, đầy sức cám dỗ, và do đó, càng nguy hiểm. Tính bi kịch của các vở kịch của ông không ở chỗ một người đàn bà vô tội đã chết, một đứa con chí hiếu bị ruồng bỏ, một mối tình trong trắng bị bôi nhọ mà ở chỗ các thê’ lực của cái ác quả là đáng sợ, chúng đang thao túng cái xã hội trước mắt anh, và thừa sức lôi cuốn, dụ dỗ những ai ngây thơ, dại dột. Nhưng Shakespeare không đầu hàng. Ông khẳng định không một sự giả dối nào dù là của lagô có thể lừa được nhân dân mãi, không một sự tàn nhẫn nào, dù là của Risac III, Măcbet có thể bắt nhân dân khuất phục mãi, không một sự ranh ma nào, dù là của Etmun có thể che đậy sự thực mãi. Trước sau gì cái thực vẫn là cái thực. Con người không bao giờ từ bỏ cái thiện, sự nhầm lẫn chỉ là nhất thời. Và bao giờ sự thực, cái thiện cũng thắng.
Trong vở kịch Pêriklet, một người đánh cá hỏi một người đánh cá khác: “Tôi muốn hỏi ông cá sống ngoài biển như thê’ nào”. Người kia liền đáp: “0! Như người ta sống trên mặt đất đó thôi: cá lớn nuốt cá bé. Tôi không thể so sánh các anh hà tiện giàu có của ta với cái gì khác hơn ỉà một con cá mập nô giỡn bằng cách đuổi lũ cá con trước mắt mình và cuối cùng thì nuốt sống tất cả một hơi. Tôi nghe nói trên mặt đâ’t cũng có thứ cá mập ấy luôn luôn mở cái mồm ra để nuốt tất cả nhà xứ, nhà thờ, gác chuông và tất cả …” (Hồi II, Cảnh 1).
Để kết thúc phần tư tưởng của Shakespeare, tôi xin dẫn lời của nhà phê bình Bêlinxki:
“Thường thường người ta hay nói Shakespeare và đặc biệt Gơtơ là những đại biểu cho nghệ thuật thuần tuý và tự do. Nhưng sự lựa chọn này là thảm hại nhất. Shakespeare là thiên tài lớn nhất trong những người sáng tạo, nhà thơ tuyệt điệu nhất, cái đó không còn ai hoài nghi nữa. Nhưng những kẻ nào nhìn thấy thơ của ông mà không thấy được cái nội dung phong phú của ông, cả một kho tàng vô tận về những bài học và những sự kiện đối với các nhà tâm lý học, triết học, sử gia, các nhà cầm quyền một nước và biết bao người khác nữa thì đó là hiểu Shakespeare một cách sai lầm”.
Thực vây, giá trị của Shakespeare trước hết là ở tư tưởng nhân đạo của ông. Đó là tư tưởng nhân đạo của nhân dân, tư tưởng này đã hoán cải tất cả. Enghen đã nói rất rõ “cho rằng Shakespeare nhờ ở thời Trung cổ nhiều, ngoài cái nguyên liệu mà ông tìm thấy ở thời này thì bao giờ cũng là giả tạo”. Ông không sáng tạo các chủ đề, các đề tài. Các vở Risac III, Hai chàng thành Vêrôn, Chàng thương nhân thành Vơni, Hămlet đều dựa vào những vở kịch có sẵn: Rômêô và Juliet bắt nguồn từ câu chuyện nhạt nhẽo Câu chuyện đáng thương của hai người Y yêu nhau của Xintiô v.v. Ông đã tiếp thu tất cả từ những câu chuyên hoang đường ở Xcanđinavi, những trang sử của Plutac, đến thái độ hoài nghi đầy trí tuệ của Môngtenhơ. Nhưng ông đã biến tất cả thành một cái gì hết sức độc đáo, hết sức sâu sắc, từ đó toát ra những vấn đề bắt nhân loại suy nghĩ, Shakespeare biết đề cập đến vấn đề ở cái khía cạnh nhân đạo nhất, và do đó, ông khiến người ta tìm thấy ở đấy những vấn đề hiện đại.
Nghệ thuật và phong cách của Shakespeare
Nghệ thuật Shakespeare có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với văn học thế giới. Ông là một trong những người có nhiều cống hiến to lớn đối với chủ nghĩa hiện thực. Theo nhiều học giả Liên Xô thì sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực thành một phương pháp hoàn chỉnh, triệt để và nhất quán gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của thế giới tư bản, của những quan hệ tư bản chủ nghĩa. Phải đến thời đại Phục hưng, khi những quan niệm Trung cổ đầy tính tôn giáo nhường chỗ cho quan niệm mới về vũ trụ, xã hội, cá nhân, lúc đó mới có chủ nghĩa hiện thực. Nhưng cũng phải đến Shakespeare chủ nghĩa hiện thực mới thực sự hình thành đầy đủ và có những đặc điểm tiêu biểu trước kia không có.
Vào thời Phục hưng, dù cho các tác phẩm của Đantê, Pêtrac có nêu lên cái nhìn mới mẻ, nội dung vẫn còn tràn đầy khuynh hướng thần bí Thiên Chúa giáo. Người ta thường so sánh các tác phẩm này với những tác phẩm hội họa, điêu khắc đương thời, tuy nôi dung miêu tả những con người sống trong thực tế với tất cả sức sống của họ, nhưng vẫn phải khoác cái áo tôn giáo về đề tài và nhân vật. Phải đến Rabơle, Xecvantet rồi Shakespeare, cuộc sống thực tế mới làm chủ nghệ thuật, nhất là với Shakespeare, con người mà theo Klôđen không chịu ảnh hưởng Kinh Thánh, lúc đó nghệ thuật hiện thực mới khẳng định sự đứt đoạn của mình với quá khứ, dù là quá khứ Hy-La hay quá khứ Thiên Chúa giáo, và sự phủ định mới hoàn tất. Nguyên lý cơ bản của phương pháp nghệ thuật này đã được Shakespeare quy định rõ rệt. Mục đích của sân khấu “từ xưa đến nay vẫn là đưa ra một tấm gương trước cuộc sống, ở đấy đạo đức có thể tự nhận ra mình, sự kiêu ngạo có thể tự khinh bỉ mình và mỗi thế hệ, mỗi thời đại có thể đánh giá bộ mật và tính cách của nó” (lời của Hămlet, Hồi III, Cảnh 2). Có thể nói, không chỉ kịch mà toàn bộ chủ nghĩa hiện thực được xác lập qua nhân định này. Chủ nghĩa hiện thực đưa ra một tấm gương để từng người một và toàn thể xã hội hiểu được mình, bằng nhận thức. Thực không có lời đánh giá nào sâu sắc hơn.
Trong số những người đã có ảnh hưởng tới phương pháp sáng tác nghệ thuật của Shakespeare, trước hết phải nói tới Bâycơn (1561-1626). Những lý thuyết cho rằng Shakespeare chính là Bâycơn đành rằng là giả tạo, nhưng cũng có những điểm làm ta chú ý. Chính Shakespeare đã áp dụng những lời khuyên của nhà triết học duy vật vào sáng tác của mình. Bâycơn cho rằng nhiệm vụ của khoa học là xây dựng được “trong trí tuệ con người một thứ kiểu mẫu của thế giới giống như nó tồn tại trong thực tế, chứ không phải cái mà tư duy gợi cho mỗi người”. Ông kêu gọi xây dựng một khoa học “xuất phát từ bản chất sự vật”, sử dụng thực nghiệm để khảo sát tự nhiên. Mác đã đánh giá rất cao những ý kiến của Bâycơn và nói: “0 Bâycơn, người sáng tạo đẩu tiên ra chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy vật mang trong mình những mẩm mông của sự phát triển toàn diện, dù là dưới hình thức còn mộc mạc. Với bất cứ người nào, vật chất đều nở nụ cười cảm tình, tươi sáng và thơ mộng”.
“Nụ cười tươi sáng, cảm tình và thơ mộng thể hiện không đâu rõ rệt bằng trong kịch Shakespeare và hiện tượng Bâycơn và Shakespeare cùng sống một thời ở một nước cũng không phải một sự tình cờ. Sức mạnh của nghệ thuật Shakespeare trước hết ở chỗ ông đã miêu tả con người đúng như nó tồn tại trong thực tế, miêu tả xã hội đúng như xã hội trước mắt.
Trước Shakespeare, trong văn học Hy Lạp đã có Etsin và Xôphôc. Xét về mặt kết cấu chặt chẽ, kịch tính của hành đông và tính bi đát của cảnh ngộ, kịch của Hy Lạp là những thành tựu khó lòng vượt nổi. Nhưng kịch Shakespeare vân gần chúng ta hơn, bởi vì chúng ta nhìn thấy con người và xã hội hiện đại ở đấy. Bi kịch Hy Lạp bị chi phối bởi tính nghiệt ngã của định mệnh. Hành động của con người bị thần linh quy định một cách nghiệt ngã. Con giết mẹ, cha giết con, vợ giết chổng, v.v… đều do các thần linh quy định. Đành rằng kịch chặt chẽ và đơn giản, nhưng cái tự do, tính phức tạp của hành động con người cũng bớt. Đối với chúng ta, những người đã khắc phục cái quan niệm thần bí về số mệnh thì những vở kịch kia tuy vẫn làm ta cảm động nhưng những Agamemnôn, Mêđê, Clitemnet, v.v… không khỏi xa lạ.
Những con người trong kịch Shakespeare thì khác. Hămlet trước hết là con người bằng xương bằng thịt, một con người không ngừng suy nghĩ, cân nhắc, tính toán, tin tưởng rồi ngờ vực, vui sướng rổi đau buồn, thay đổi từng phút một. Con người này có thể giết lầm Pôlôniut vì tưởng đó là kẻ thù, có thể xách kiếm lên phòng kẻ thù, nhưng thấy y cầu nguyện thì dừng lại. Trong một lúc tuyệt vọng, chàng có thể nghĩ đến việc tự tử, nhưng ngay sau đó lại kiên quyết thi hành nhiệm vụ. Hạng người “biến đổi và đa dạng” này là sản phẩm mới của lịch sử. Đó là con người cân đại. Cái không khi số mệnh bao trùm kịch Hy Lạp và kịch Trung cổ đã chấm dứt. Các hồn ma hiên lên trong Hămlet, Măcbet không hề quyết định được hành động con người.
Hămlet được hổn ma cha mình báo nhưng không tin nên phải dùng một vở kịch để kiểm tra. Măcbet và Bancô đều được bọn phù thuỷ báo tin rằng Măcbet và con cháu Bancô sẽ làm vua, nhưng Măcbet biến thành tên quỷ khát máu vì y tham lam và bị vợ cám dỗ, còn Bancô gạt phăng lời cám dỗ. Đúng như lời Catxiut nói với Brutut: “Anh Brutut thân mến! Các lỗi lầm của chúng ta không phải ở ngôi sao chiếu mệnh của ta. Nó ở trong ta”. Các hành động dù là cao cả nhất hay thấp hèn nhất đều xuất phát từ bản thân con người trong những hoàn cảnh cụ thể. Chính vì vậy, tất cả nhân vật của Shakespeare không có ai có vẻ công thức. Ai cũng có ý nghĩ, tình cảm riêng và đều hành động theo những lý do sâu sắc của nội tâm.
Con người trên sân khấu xưa nay vần là con người có một khát vọng nhất định. Họ không phải là những kẻ thờ ơ sống qua ngày đoạn tháng, mà là những kẻ bị khát vọng nung đốt, dằn vặt. Tuy vậy, cách miêu tả khát vọng của ông thực là độc đáo và là một ưu điểm nổi bật khi ta đem so sánh với các nhà viết kịch khác. Các nhà viết kịch thường có xu hướng đơn giản hoá tính cách con người, để làm nổi bật cái khát vọng chủ đạo. Cách làm này cho phép ta có thể khái quát họ bằng một khái niệm: người này là anh hà tiện, người kia là kẻ yêu nước không nhân nhượng, người nọ là anh đạo đức giả hay anh mê gái, sính chữ, ham tiền, thích địa vị… Phương pháp thể hiện của Shakespeare thì khác. Trong khi nêu lên đặc điểm tiêu biểu nhất, tác giả vẫn đặt nó trong mối quan hệ hữu cơ với nhiều đặc điểm khác hết sức phức tạp, nhờ đó nhân vật càng sinh động, hiện thực. Puskin đã nhận xét rất đúng khi nói “nhân vật do Shakespeare sáng tạo không phải là điển hình của môt khát vọng nào đó, của một tật xấu nào đó như ở Môlie, mà là những con người có nhiều thói xấu, nhiều khát vọng, và hoàn cảnh làm cho tính cách của nó phát ĩriển trước mắt người xem. Dưới ngòi bút của Môlie, người hà tiện là một người hà tiện và chỉ có thế. Dưới ngòi bút của Shakespeare, Sailôc là một người hà tiện, nhưng đồng thời lại khôn ngoan, muốn trả thù, yêu con gái, cơ trí v.v…”. Nói khác đi, Shakespeare miêu tả được cái điển hình ở trong cá nhân. Sailôc trong Chàng thương nhân thành Vơni và Hacpagông trong Người hà tiện của Môlie là hai điển hình thành công về mặt miêu tả hạng người hà tiện. Nhưng Hacpagông của Môlie chỉ là một anh hà tiện lố bịch, buồn cười, còn Sailôc của Shakespeare là cá nhân Sailôc, hết sức phức tạp và đa dạng.
Chính vì Shakespeare biết thể hiện cái điển hình ở trong cá nhân cho nên thế giới của Shakespeare là thế giới “của một vạn tâm hồn” (Côlơrit), vô địch trong văn học. Bêlinxki nói: “Nhưng Shakespeare, Shakespeare vô địch, siêu việt kia đã bao quát cả địa ngục, trần gian và thiên đường: đây quả là vị chúa tể của tự nhiên. Ông đã bắt cái thiện lẫn cái ác đều phải nộp cống phú, và trong cái nhìn của ông, ông thấy máu của vũ trụ đập mạnh. Mỗi vở kịch của ông là một vũ trụ thu nhỏ lại. Ông không có những tư tưởng được nuông chiều, không có những nhân vật được ưu đãi như Sile. Các bạn hãy xem ông chế nhạo tàn nhẫn như thế nào anh chàng Hămlet tội nghiệp
kia với những ý định khổng lổ nhưng ý chí lại là ý chí của một đứa trẻ. cứ đi mỗi bước lại vấp ngã dưới gánh nặng của một nhiệm vụ quá sức chịu đựng của mình!…. Các bạn hãy hỏi Shakespeare, vị chúa tể của các vị pháp sư kia, tại sao ông lại tả Lia thành một ông già yếu đuối, hầu như là ngốc nghếch… tại sao ông lại biểu lộ ở Mãcbet một con người biến thành một tên hung bạo chỉ vì yếu đuối chứ không phải vì quen làm việc ác, và ở vợ Măcbet, một kẻ bản chất hung bạo, tại sao ông lại biểu hiện Cordelia thành cô gái dễ thương và giàu tình cảm, còn các bà chị của cô thành những con quỷ thèm thuồng, tham lam và hung bạo. Ông đã trả lời rằng trên đời là như vậy và không thể khác được”. Lời đánh giá của Bièlinxki thât không phải quá đáng, bởi vì so với các nhà văn khác, điểu làm cho Shakespeare thành vô địch là vì ông điển hình hoá được mọi hạng người, từ những cô gái dề thương, ngây thơ đến những người đàn bà khát máu, từ những chàng trai vui nhộn yêu đời đến những ông già ích kỷ, chật hẹp mà mỗi người đều khác hẳn nhau. Chúng ta bắt gặp ở đấy con người bằng xương bằng thịt chứ không phải cái phạm trù “con người” chung chung, cái phạm trù “đàn bà” chung chung. Chúng ta bắt gập nàng Juliet ngây ngất vì đang thủ thỉ với người yêu dưới ánh trăng thanh, nàng Porxia tóc vàng, nàng Ophelia ngơ ngác khi thấy người yêu giết chết cha mình. Họ đưa đến cho ta một cảm giác đột ngột, giống như chàng hoàng tử Fecdinang nọ, trong Cơn bão, đắm tàu lạc vào một hoang đảo, và người đầu tiên chàng gặp lại là nàng Miranda tuyệt đẹp, từ xưa đến nay chưa thấy một chàng trai.
Vì tìm thấy được cái điển hình ở cá nhân, nên kịch của Shakespeare hết sức sinh động và hiện thực. Điều này cắt nghĩa xu hướng sùng bái Shakespeare ở nhiều nước. Trong bức thư gửi Mác ngày 19-12-1873, Enghen viết: “Cái tên đốn mạt Rôđrich Bênêđich đã xuất bản một cuốn sách dày cộp mang tèn Bệnh sủng bái Shakespeare, trong đó hắn chứng minh hết sức tỉ mỉ rằng Shakespeare không thể sánh với các đại thi hào của nước ta, cũng không thể sánh được ngay với những nhà thơ hiện đại. Hình như là phải lật Shakespeare khỏi cái đài kỷ niệm để đặt cái đít to tướng của Bênêđich vào đây thì phải. Nhưng chỉ một màn thứ nhất của Những bà vợ vui vẻ ở Uynxo cũng đủ thấy có nhiều sinh động và nhiều thực tế hơn là toàn bộ văn học Đức: chỉ riêng Laoxơ và con chó nhỏ Krap của anh ta cũng hay hơn toàn bợ các hài kịch Đức cộng lại”. Có thể nói nhờ bám sát thực tế, nên tác phẩm của Shakespeare không phải đưa ra một lý thuyết khuôn sáo mà chính đã đưa ra được một mảnh của cái cây đời mãi mãi xanh tươi.
Một điểm càng làm nổi bật tính hiện thực của kịch Shakespeare là ông không khu biệt rạch ròi biên giới bi kịch và hài kịch. Trước ông, ranh giới giữa hai loại này rất rõ. Shakespeare là tác giả đầu tiên không chỉ viết thành công như nhau cả bi kịch lẫn hài kịch mà còn sáng tạo ra loại kịch riềng, sau này gọi là chính kịch (drama). Xuất phát từ quan niệm kịch là cuộc đời thu nhỏ, ông biến kịch thành tấm gương của cuộc đời. Đã gọi là cuộc đời thì cái cao thượng có mặt bên cạnh cái ti tiện, nước mắt tiếp nối nụ cười, cái vui hoà lẫn cái buồn, cá nhân không tách riêng khỏi quần chúng, những suy nghĩ kín đáo nhất của nội tâm đột nhiên bộc lộ thành hành động ồn ào. Do đó những vở kịch của ông cũng đa dạng như cuộc đời. Trong Rômêô và Juliet, những cuộc gặp gõ của Rômêô và Juliet chan chứa sức mạnh của tho trữ tình, đầy cả cái tha thiết của mối tình đầu, xen lẫn với những đoạn lâm li xé ruột. Chàng Rômêô mơ màng bao nhiêu thì chàng Mơkiuxiô vui nhộn bấy nhiêu; ông già Capiulet ích kỷ ở cạnh tu sĩ Lôrân cao quý; Juliet ngây thơ bên cạnh nhũ mẫu quá thiết thực. Đây là loại kịch gì? Gọi là bi kịch, hài kịch, kịch lịch sử, kịch phong tục đều không đúng. Shakespeare không nghĩ đến các khuôn khổ có sẵn để trói buộc kịch trường mà chỉ nghĩ đến cách mượn nghệ thuật để tái hiện cuộc đời. Có thế thôi. Thế giới kịch của Shakespeare là thế giới biến ảo như vây. Đọc một vở kịch của Xôphôc, của Raxin, ta có thể đoán gần đúng các vở còn lại từ kết cấu đến ngôn ngữ, phong cách. Nhưng không ai đọc hồi trước của Hămlet mà đoán được hồi sau ra sao? Ta chỉ biết xem kịch Shakespeare để ngạc nhiên, rồi vì ngạc nhiên mãi mà thành thán phục. Không phải ngẫu nhiên mà một sử gia Anh nói: “Vật cao quý nhất những người nước Anh chúng ta đã tạo ra chính là anh chàng Shakespeare này”.
Về mặt này, Shakespeare đã thu được tất cả những lời tán dương mà một người có thể có. Victo Huygô (Pháp) viết một tác phẩm về Shakespeare và gọi ông là ’con người đại dương”, Côlơrít gọi Shakespeare là “con người có một vạn tâm hồn”, Hainơ (Đức) gọi kịch của ông là “Kinh Thánh của thế tục”, còn Gơtơ thừa nhân: “Tôi không nhớ có quyển sách nào hay biến cô nào đã gây cho tôi một ấn tượng mãnh liệt như những vở kịch cùa Shakespeare… Đây không phải là tác phẩm thơ nữa. Đọc nó, người ta sợ hãi thấy trước mắt mình là quyển sách của vân mệnh con người và người ta nghe cơn lốc của cuộc sống đang lạt mạnh các trang”. Sự thán phục của Gơtơ thực là vô bờ bến: “Trang đầu tiên của Shakespeare đã chinh phục tôi suốt cuộc đời… Tôi nhân thấy và cảm thấy một cách sinh động rằng cuộc sống của tôi nhân lên đến vô cùng; tất cả đối với tôi đều mới mẻ, kỳ ảo; và một luồng ánh sáng mới lạ làm cho mắt tôi nhức nhối. Kịch Shakespeare, đó là nơi trưng bày những vật hiếm có, trong đó lịch sử thế giới dường như là diễn ra trước mắt chúng ta theo sợi dây thời gian mà ta không thấy được… Tự nhiên! Tự nhiên! Có cái gì có thể tự nhiên hơn là những con người của Shakespeare”.
Sự xuất hiện của phương pháp xây dựng nhân vật của Shakespeare là một hiện tượng quan trọng bậc nhất trong lịch sử của kịch. Mác và Enghen gọi đó là cách “Shakespeare hóa” và khuyên các nhà viết kịch nên đi theo con đường ấy. Trong bức thư gửi cho Latxan ngày 16-4-1859 phê bình vở kịch Franxơ Phôn Xiclingen của ông ta, Mác viết: “Rõ ràng là lúc ấy anh nên Shakespeare hoá hơn nữa, còn bây giờ thì tôi nhân định rằng khuyết điểm lớn nhất của anh là Sile hoá tức là biến nhân vật thành những phát ngôn nhân của tinh thần thời đại”. Trước đó một ngày,
Enghen cũng viết cho Latxan như vậy: “Tuy vậy, theo tôi thì hình như tính cách của cá nhân không những được diễn tả bằng việc mà cá nhân làm, mà còn bàng cách cá nhân ấy làm việc đó nữa, mà về mặt này, thì nội dung tư tưởng của vở kịch của anh có thể không bị thương tổn gì hết, tôi tin như thế, nếu đặc tính của các nhân vật được phân biệt và đối lập nhau một cách rõ rệt hơn nữa. Lối thể hiện của người xưa bây giờ không đủ nữa, và ở đây, tôi nghĩ có lẽ không khó khăn lắm, anh có thể chú trọng nhiều hơn nữa tới tác dụng quan trọng của Shakespeare trong lịch sử ngành kịch”.
Vì Shakespeare cá tính hoá triệt để nhân vật cho nên không thể dễ dàng tìm tư tưởng ông qua những lời nói của nhân vật. Phương pháp trích dẫn lời nói của nhân vật xem đó là tư tưởng Shakespeare đã dẫn tới mọi nhân định trái ngược nhau mà người ta có thể hình dung được. Chỉ có cách nhìn toàn bộ quá trình sáng tác, nắm lấy tính nhân dân sâu sắc của tác giả và dựa trên những lời đánh giá của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê, chúng ta mới có thể có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về thiên tài của nhà viết kịch vĩ đại.
Một điều cần nói về sự cá tính hóa của Shakespeare là Shakespeare không phóng đại nhân vật theo lối “ngoa dụ” để biến nó thành quái gở, hay miêu tả những trạng thái bệnh lý của tâm hổn để cho nó thành độc đáo. Rất nhiều nhà nghệ sĩ và học giả đời sau cố ý khảo sát xem Shakespeare đã dùng những thủ đoạn nghệ thuật gì để làm cho tác phẩm của mình sinh động đến thế. Câu trả lời đúng nhất có lẽ là cái khẩu hiệu viết ở rạp hát “Globus” của Shakespeare: “Totus mundus agit histrionem” (tất cả thế giới diễn kịch). Trong các vở kịch Shakespeare, thường nhắc đến sự so sánh cho rằng thế giới là một tấn kịch và cố nhiên tấn kịch của Shakespeare: là diễn đạt lại cái tấn kịch tác giả thấy trong cuộc đời. Trong các vở kịch của ông, dù khung cảnh là ở Anh, ở Pháp hay ở Đan Mạch, hay chỉ là một giấc mơ, dù thời gian là hiện tại hay quá khứ, bao giờ ông cũng chỉ cốt làm sao cho người xem nhân thức thế giới và con người một cách chân thực. Còn các quy tắc thể hiện thì ông rất rộng rãi. ông có thể viết một vở kịch theo luật tam duy nhất chặt chẽ (hành động duy nhất, địa điểm duy nhất và thời gian duy nhất) như vở Cơn bão nhưng cũng có thể viết một vở kịch hành động kéo dài hàng chục năm và địa điểm luôn thay đổi như các vở biên niên sử. ông có thể viết một vở hài kịch vui nhộn từ đầu đến cuối như Những bà vợ vui vẻ ở Uynxo, nhưng cũng có thể viết một vở trong đó cái hài xen lẫn với cái bi trong từng hồi một. Người thầy của ông là cuộc sống thực trong xã hội và quần chúng nhân dân. Trước Shakespeare, nước Anh cũng đã có những kịch tác gia lớn, nhưng Shakespeare đã làm lu mờ tất cả bằng cái thiên tài đa dạng của mình. Ông đã thể hiện nhân loại dưới mọi phương diện, với tất cả mọi sắc thái. Tất cả những vở kịch của ông chỉ là một vở kịch duy nhất, ở đấy tất cả mọi người, từ ông vua đến người ăn mày, từ nhà thông thái cho đến người điên, từ tuổi trẻ say sưa bồng bột đến tuổi già, ích kỷ, nhỏ nhen, gặp nhau làm thành một bức tranh hấp dẫn, mênh mông. Huygô nói một cách say sưa: “Shakespeare là cái gì? Người ta hầu như có thể trả lời rằng, đó là trái đất… Trong Shakespeare chim hót, các bụi rậm xanh mơn mởn, những con tim yêu, những tâm hồn đau khổ… Hôme đánh dấu sự chấm dứt nền vãn minh của Châu Á và sự khởi thủy của Châu Âu, Shakespeare đánh dấu sự chấm dứt của thời Trung cổ. Sự chấm dứt này Rabơle và Xecvantet cũng làm; nhưng vì họ chỉ châm biếng mà thôi nên họ chỉ đưa ra một mật hạn chế; tinh thần của Shakespeare đưa ra một cái toàn vẹn… Trên Shakespeare không còn ai nữa… Chỉ riêng một mình ông ta, ông ta đã bằng cả thế kỷ XVII đẹp đẽ của nước Pháp chúng ta và gần cả thế kỷ XVIII”. Phương pháp hiện thực của Shakespeare lại có những điểm nổi bật mà các nhà hiện thực khác thời Phục hưng như Xecvantet, Rabơle không có. Shakespeare là người đầu tiên nói đến số phận nhân dân, đưa nhân dân lên sân khấu với tất cả tinh thần tự hào, trí thông minh, sức sống dào dạt của họ. Các nhân vật của Shakespeare đều có ý thức rõ rệt về nhiệm vụ cùa mình đối với tương lai. Đặc biệt Shakespeare đã diễn tả đúng đắn tinh thần lịch sử của thời đại.
Nhưng sở dĩ ông có được những cống hiến to lớn như vây chính là vì ông là một nghệ sĩ nhân dân trong ý nghĩa toàn vẹn nhất của danh từ. Puskin đã nói điều đó như sau: “Trong bi kịch Shakespeare nói lên cái gì? Mục đích của bi kịch là cái gì? Đó là con người và nhân dân. Đó là số phân của nhân loại, số phận của nhân dân… chính chỗ đó làm cho Shakespeare vĩ đại”. Các vở kịch của ông viết ra là nhằm phục vụ quảng đại quần chúng trong đó đa số là dân lao động. Điều ông nhằm trước hết là làm sao cho quần chúng rộng rãi thưởng thức được tất cả nôi dung nhân đạo của tác phẩm. Chính vì vây ông đã sử dụng một nghệ thuật rất sát nhân dân, và ông đã trở thành nhà vãn được quần chúng Anh tin yêu. Điều này có thể thấy rõ trong ngôn ngữ của tác giả.
Ngôn ngữ của kịch Shakespeare là ngôn ngữ để diễn. Nó có mục đích vẽ lên trước mắt khán giả một hình ảnh quen thuộc nhờ đó họ đi sâu vào nội dung tư tưởng. Như nhà thơ Grây nói “mỗi lời của ông là một bức tranh”. Điều đó là một việc thiết yếu trong hoàn cảnh diễn kịch lúc bấy giờ. Trong thời Shakespeare, sân khấu chỉ vẻn vẹn có cái sàn gỗ, mọi trang trí dàn cảnh đều không có. Sân khấu bị khán giả bao quanh ba mặt. Cuối sân khấu có một cái gác theo kiểu bao lơn, đó là nơi Juliet sẽ chờ Rômêô. Ánh sáng là ánh sáng ban ngày và kịch thường bắt đầu vào khoảng ba giờ chiều. Muốn hình dung một nơi nào thì người ta treo một tấm bảng đề tên nơi ấy. Sân khấu không có màn, không có cảnh gì cả, chỉ có một cái bàn và một cái ghế. Vì không có màn, không có cảnh gì cho nên trong nguyên bản không chia ra những cảnh khác nhau, cũng không nói gì đến bài trí sân khấu (những điều này đều do những người nghiên cứu thêm vào để theo dõi vở kịch cho tiện). Các vai nữ đều do đàn ông đóng vì đàn bà không được phép diễn kịch. Trong hoàn cảnh ấy, nhà viết kịch đã lấy ngôn ngữ để vẽ lại tất cả và thể hiện sự phối hợp đầy đủ nhất
giữa người với cảnh. Shakespeare đã làm điều đó thành công đến nỗi nhắc đến tên người là người ta nhớ ngay đến hoàn cảnh. Nói đến Juliet, người ta nghĩ ngay đến đêm dạ hội tưng bừng, cái bao lơn nhuốm ánh trãng, nói đến Porxia, người ta nhớ ngay đến mái tóc vàng của nàng, nói đến Hămlet, người ta nghĩ đến sân thượng của lầu Enxơnơ đã hiện ra trong đêm trường tĩnh mịch. Chỉ cần vài câu thơ là cái đêm bão táp hiện ra, ánh chớp loé sáng trên cái đầu bạc phơ của Lia, chỉ cần vài chữ là người ta thấy cái bàn tay đẫm máu của vợ Măcbet. Ngôn ngữ của Shakespeare cụ thể đến nỗi đã làm cơ sở cho rất nhiều tác phẩm hội hoạ đặc sắc. Nó đã thay thế tất cả mọi trang trí, mỗi chữ gắn liền với một hành động và nâng đỡ rất nhiều cho các diễn viên trong việc tìm phương pháp thể hiện. Ngôn ngữ của Shakespeare vô cùng phong phú. Ông là người đầu tiên đã đưa vào văn học Anh một vốn từ đồ sộ: trên hai vạn từ (theo nhà nghiên cứu Xmit), trong đó một phần đáng kể được ông lần đầu tiên đưa thẳng từ ngôn ngữ quần chúng vào ngôn ngữ văn học, và phần lớn những từ này đến nay vẫn được dùng: “các tập quán, các cách chào hỏi, những đặc điểm về y phục, tên gọi các đổ vật, giáp trụ, luật lệ, đời sống nhà trường, những hiện tượng đặc biệt trong tự nhiên, thiên văn học, chiêm tinh học, những tín ngưỡng dàn gian về ma quỷ, tất cả đều được phản ánh qua ngôn ngữ của Shakespeare” (Đaođơn). Những từ ông dùng là những từ nhân dân hiểu được, hầu như ông không dùng những từ chuyên môn chỉ có một số ít người hiểu, hay những từ địa phương, mặc dầu lúc bấy giờ ảnh hưởng tiếng dịa phương rất mạnh. Để cho nhân dân hiểu, ông đã sử dụng rộng rãi các câu đố, tục ngữ, bài hát, dân ca, tóm lại toàn bộ văn học truyền khẩu của nhân dân. Ớ đây Shakespeare thực là táo bạo, “các tác phẩm của Shakespeare hết sức phong phú những đoạn văn của văn học dân gian… Chỉ riêng trong hài kịch, người ta có thể rút ra một tuyển tập phong phú về tục ngữ” (Oantơ Rali). Shakespeare rất xa lạ với việc vận dụng ngôn ngữ cầu kỳ. Trong các tác phẩm của ông, người ta nhân thấy Shakespeare vay mượn nhiều ở vãn học cổ đại, ở các nhà nhân đạo chủ nghĩa thời Phục hưng như Rabơle, Môngtenho, nhưng bao giờ ông cũng trình bày những câu văn hay những điển tích dưới hình thức dễ hiểu nhất dối với quần chúng. Chính phương pháp vân dụng ngôn ngữ này đã khiến nhiều nhà phê bình văn học vì thích ngôn ngữ “thanh lịch”, “tao nhã”, “thuần tuý”, chê rằng ngôn ngữ Shakespeare ít trau chuốt, có những lời thô tục. Nhưng nói như vây là tách ngôn ngữ ra khỏi nội dung của tác phẩm. Trái lại, ngôn ngữ của Shakespeare là ngôn ngữ thành công nhất của kịch, vì nó phối hợp được tất cả mọi cách diễn đạt. Nó đã phối hợp được tính trữ tình nhẹ nhàng với tính sử thi trang trọng; nó kết hợp được cái sâu sắc của triết học với cái bình dị của lời nói hằng ngày. Khi nói đến một vở kịch lý tưởng, Enghen có nói đó là một vở kịch “kết hợp tài tình tính chất sâu sắc về tư tưởng, nội dung lịch sử có ý thức… với cách kết cấu theo kiểu Shakespeare”, và chúng ta có thể xem đây là yêu cầu cao nhất về nội dung cũng như về hình thức đối với một vở kịch.
Ảnh hưởng của Shakespeare và việc dịch thuật
Các vở kịch của Shakespeare từ lâu đã trở thành gia tài nghệ thuật và văn hoá của toàn thế giới. Chỉ tính riêng từ 1877 đến 1935, theo thống kê chưa đầy đủ, đã có trên 2000 công trình nghiên cứu chỉ riêng về vở kịch Hămlet. Nói đến những người thích Shakespeare, trước tiên phải nói đến Mác. Theo Mêrinh “hình ảnh mãnh liệt của Shakespeare là một đối tượng được gia đình Mác tôn thờ”. Mác từng đọc trầm từng đoạn kịch Shakespeare cho con gái nghe đến nỗi người con gái của Mác là Elêono nói: “Lúc lên sáu tôi đã thuộc làu từng cảnh của Shakespeare từ đầu chí cuối”. Lúc viết văn, Mác thường dùng hình ảnh của Shakespeare và Shakespeare thuộc vào số ba nhà văn mà Mác thích nhất (hai người kia là Etsin và Gơtơ).
Đúng như lời nhận định của Xamuen Jônxơn (1765): ” Shakespeare đứng trên tất cả các nhà văn, ít nhất là các nhà vãn hiện đại, bởi vì ông là nhà thơ của tự nhiên – nhà thơ đưa ra trước mắt độc giả tấm gương trung thành nhất về các tính cách và cuộc sống… Những tác phẩm của ông khác các tác phẩm của các nhà vãn khác cũng như cánh rừng khác cái vườn vậy”.
Ớ Đức, uy tín tuyệt đối của Shakespeare về mặt kịch là điều không ai có thể phủ nhận. Bản dịch kịch Shakespeare của Tichcơ và Slêghen được ca ngợi đến mức người Đức gọi Shakespeare đã đầu thai ở Đức và Anfret Kurenla nói: “Không thể nào hình dung sự phát triển của kịch Đức nếu chúng ta bỏ qua bản dịch Shakespeare ra tiếng Đức của Tichcơ và Slêghen (Lý luận và thực tiễn của việc dịch). Letxinh, Gơtơ, Herđe, Slêghen, Tichcơ và những người khác đã làm rất nhiều để phổ biến các vở kịch của Shakespeare, làm cho ông quen thuộc với nhân dân Đức. Họ đã biểu lộ lòng biết ơn sâu sắc vị thầy vĩ đại bằng những lời lẽ cảm động. Gơtơ nói: “Nếu như chúng ta cho rằng Shakespeare là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thì tức là chúng ta đã thừa nhân rằng không có mấy người nhận thức thế giới được như ông nhận thức, không có mấy người biết nâng độc giả đến sự nhận thức thê’ giới như vây. Thế giới đối với chúng ta hoàn toàn trong suốt, đột nhiên chúng ta thấy bộc lộ ra đạo đức và tật xấu, cái vĩ đại và cái nhỏ bé, cái cao quý và cái thấp hèn – và tất cả những điều này bằng những phương tiện đơn giản nhất. Tất cả cái gì bay trong không khí khi diễn ra những biến cố lớn của thê’ giới, tất cả những cái gì hiện ra trong trái tim con người trong những phút kinh khủng, tất cả những cái gì mà chúng ta sợ hãi, lo giấu kín trong lòng, ở đây đều lộ ra một cách tự do và tất yếu; chúng ta nhân thức được cái chân lý của cuộc sống và bản thân chúng ta không hiểu bằng cách nào chúng ta lại nhận thức được”.
Để phản đối lại cái lý luân gò bó về luật tam duy nhất mà người ta thường dùng để trách Shakespeare là thiếu học, thiếu “gu”, thi sĩ Hainơ trả lời: “Cái vũ đài trong kịch của ông, đó là trái đất; tính duy nhất về vị trí của ông là ở đấy. Vĩnh viễn, đó là cái thời gian trong đó những vở kịch của ông được diễn; tính duy nhất về thời gian của ông là ở đấy… Nhân loại, đó là nhân vật của ông, nhân vật này luôn luôn chết đi, sống lại, yêu thương, căm thù… hôm nay đội cái mũ tai lừa, nhưng ngày mai lại mang một vòng lá nguyệt quê’ và thường còn mang cả hai cùng một lúc”.
ơ Pháp, việc đánh giá Shakespeare gặp nhiều trở ngại. Để đánh giá đúng Shakespeare, nước Pháp còn phải thay đổi cả cách quan niệm của mình về kịch, phải đánh giá lại kịch cổ điển, luật tam duy nhất, tức là đánh giá lại những giá trị văn học mà nước Pháp rất tự hào. Vì vây, đến thế kỷ XIX, nước Pháp là nước có nhiều thành kiến xấu về Shakespeare. Mãi đến Huygô, Flôbe, Xtenđan… mới xóa bỏ được thành kiến đối với kịch Shakespeare và uy tín của Shakespeare mới được thừa nhân rộng rãi.
Trái lại, ở Nga từ trước và ở Liên Xô ngày nay, ta bắt gặp sự đánh giá toàn diện về Shakespeare. Theo Puskin, những tác phẩm của Shakespeare “đứng trên cái đỉnh không ai đạt được”, làm thành “đối tượng vĩnh viễn để ta nghiên cứu và ngây ngất”. Ông viết: “Sự giống thực của tình huống và sự đúng đắn của đối thoại, đó là những luật lệ chân chính của bi kịch… Tôi không đọc Candêron, tôi không đọc Vêga, nhưng cái ông Shakespeare kia mới là con người kỳ lạ làm sao!… Anh hãy đọc Shakespeare (đây là cái điệp khúc của tôi). Ông ta không bao giờ sợ làm cho nhân vật đang hành đông của ông ta bị tai tiếng, ông để nó nói với tất cả sự thoải mái của nó, bởi vì ông tin rằng ông sẽ làm cho nhân vật tìm được cái ngôn ngữ phù hợp với tính cách của nó”… và Puskin đi đến một kết luân có tính nguyên tắc mà ông đã theo để viết vở Bôrit Gôdunôp: “Tin chắc rằng những hình thức cũ kỹ của kịch chúng ta đòi hỏi phải thay đổi lại, tôi đã viết vở kịch theo nguyên tắc của người cha chúng ta là Shakespeare”. Điều mà Mác và Enghen khuyên Latxan mà Latxan không làm được cũng là điều Puskin đã tìm thấy và đã làm được, và đó chính là cái vĩ đại của Puskin.
Trong khi các nhà Shakespeare học tư sản xuyên tạc tính chất tiến bộ của Shakespeare, trình bày Shakespeare thành con người tiếp tục ý thức hệ thần bí Trung cổ, thì các nhà Shakespeare học Liên Xô (Lunatsacxki, Môrôzôp, Xmirnôp, Anixt, Bungakôp v.v…) đã đặt vâh đề tiếp thu gia tài đổ sộ của Shakespeare dưới ánh sáng của sự nhân thức Mác-Lê về quá trình lịch sử của văn học, và đã phân tích một cách dúng đắn các tác phẩm của ông. Lunatsacxki viết; “Ông ta thấy nó (cuộc sống – N.D.) như chưa ai trước ông ta và sau ông ta thấy. Ông thấy rộng rãi một cách kỳ lạ. Ông thấy tất cả cái tốt là cái xấu, ông thấy quá khứ và cái tương lai có thể có. Ông hiểu con người sâu sắc, ông biết điều mơ ước của những con người này, và điều đó bao giờ ông cũng làm được, dù khi nhìn vào quá khứ hay thể hiên hiên tại, hay tạo nên một điển hình đặc biệt từ con tim của mình, tất cả đều đầy sức sống như con người sống vây”.
Gorki gọi Shakespeare là “kịch tác gia vĩ đại nhất thê’ giới” và thấy ý nghĩa quan trọng của việc tiếp thu gia tài của Shakespeare, phương pháp viết kịch của Shakespeare đối với việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa: “Vị thầy của chúng ta, nhà hoạt động, người xây dựng thế giới mới phải là nhân vật chính của kịch hiện đại. Và để miêu tả nhân vật này với một sức mạnh cần thiết thì phải học cách viết kịch của những bậc thầy trước kia không ai vượt nổi mà trước hết là Shakespeare”.
Bên cạnh truyền thống nghiên cứu Shakespeare, ở Liên Xô lại có một truyền thống diễn Shakespeare với những nhà đạo diễn và diễn viên nỗi tiếng thế giới. Các nhà nghệ sĩ nghiên cứu hết sức công phu các tác phẩm của Shakespeare để thể hiện những vở kịch trung thành với tác giả và đáp ứng những yêu cầu của quần chúng Xô viết.
Năm 1934, bên cạnh Hội kịch của toàn Nga đã thành lập “phòng Shakespeare”, năm 1938, phòng này đổi tên là “phòng Shakespeare và kịch Tây Âu” nhằm mục đích nghiên cứu, phê bình về Shakespeare. Shakespeare đã tìm thấy ở Liên Xô tổ quốc thứ hai. Chỉ từ 1918 đến năm 1956, ở Liên Xô đã xuất bản 230 lần tác phẩm Shakespeare với 2.641.000 quyển bằng 27 thứ tiếng các dân tộc ở Liên Xô. Cũng cần nói thêm Shakespeare là nhà văn mà tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới. Chỉ riêng điều này cũng đủ nói ông được nhân loại yêu quý như thế nào.
Việc dịch Shakespeare xưa nay được xem là một việc rất khó. Theo thống kê sơ bộ, riêng ở Pháp, những vở như Hămlet, Rômêô và Juliet… có ít nhất 50 bản dịch khác nhau nhưng chưa có bản dịch nào làm người đọc hoàn toàn vừa ý. Điều đó không phải do chỗ trong số những bản dịch này không có những bản dịch giá trị. Trái lại, nhiều bản dịch của Franxoa Victo Huygô, Benjam, v.v… đã được xem là những tác phẩm thuộc hạng giá trị nhất, công phu nhất của nghệ thuật dịch ở Pháp. Điều đó là do ở đặc điểm ngôn ngữ của Shakespeare.
Ngôn ngữ của Shakespeare rất đâm hương vị dân gian, mà xưa nay cái hương vị này vẫn là cái khó dịch nhất. Điều này cũng giống như điều ta bắt gặp ở Hồ Xuân Hương là tác giả khó dịch nhất của Việt Nam. Đọc trong nguyên ngữ thì cái hay cũng không khó hiểu nhưng diễn sang một ngôn ngữ khác nhiều khi gần như bó tay. Có những hình ảnh đối với dân tộc này thì râ’t quen, nhưng đối với dân tộc khác thì xa lạ, thậm chí khó nghe. Những câu tục ngữ, dân ca, những câu đố, những cách nói hai ba nghĩa là những điều gần như không thể dịch được, nếu dịch theo đúng nghĩa thì mất cả hương vị, nếu tìm một câu tương tự trong văn học nước mình thì lại không sát. Kết quả là dịch giả nào cũng phải chọn một cách diễn đạt: hoặc là chú trọng về hình ảnh không kể đến chỗ nó có thích hợp với ngôn ngữ nước mình lắm hay không, hoặc phải làm sao cho bản dịch sáng sủa, gọn gàng. Có thể có bản dịch sáng rõ hơn, thâm chí trau chuốt hơn nguyên tác, nhưng không thể có bản dịch nào đậm đà màu sắc dân tộc bằng nguyên tác. Thêm vào đó, kịch Shakespeare lại đầy những câu có thể hiểu hai, ba nghĩa, những trò chơi ngộ nghĩnh. Những đoạn này lúc diễn có tác dụng sân khấu thú vị nhưng người dịch không biết xoay xở thê’ nào. Với một ngôn ngữ gần tiếng Anh như tiếng Đức thì dịch giả có thể diễn đạt một phần, nhưng với một ngôn ngữ khác xa tiếng Anh như tiếng Việt thì chỉ còn có một cách là chọn lấy một nghĩa mà mình cho là đúng nhất rồi tìm một câu chơi chữ tương ứng mà bản thân dịch giả thường cũng biết là vụng về. Khó khăn nhất cho người dịch là tính chất đa dạng của ngôn ngữ: khi thì thô lỗ, “mánh qué”, khi thì hết sức tế nhị, thanh cao, khi thì hùng hồn, khi thì lâm li… Với một bực thầy về ngôn ngữ như vậy, người dịch khó lòng có đủ khả năng diễn đạt tất cả cái đa dạng sang ngôn ngữ nước mình, cho nên đọc bản dịch thường thường ta thấy gọn gàng, trau chuốt công phu, nhưng vân lạt hơn nguyên bản. Mặt khác, kịch Shakespeare phần lớn viết bằng thơ. Kịch thơ có một phần lý tưởng hóa nhất định, nhất là trong những đoạn trữ tình. Nếu dịch bằng văn xuôi thì rất dễ gây ấn tượng kiểu cách, nếu dịch bằng thơ thì có thể tránh được ấn tượng ấy nhưng lại khó dịch trung thành. Đó là những khó khăn chính trong việc dịch Shakespeare ngoài những khó khăn chung như ý nghĩa sâu xa, lời lẽ xúc tích mà ta bắt gặp ở tất cả những nhà văn lớn.
Dó đó, ở nước nào cũng có nhiều bản dịch Shakespeare về tùmg vở một, đều đúng nguyên bản nhưng lại rất khác nhau về phong cách. Tuy có nhiều cách dịch như vây, những cũng cần phải khẳng định rằng kịch Shakespeare không phải thuộc loại tác phẩm không thể nào dịch được. Nói như vậy là không hiểu tính toàn nhân loại của tác phẩm của Shakespeare. Như Gơtơ khẳng định cực kỳ sâu sắc và hoàn toàn đúng: “Một tác phẩm vĩ đại, phong phú tính chất nhân loại, đổng thời phải có một đặc tính quan trọng không thể thiếu được là dịch ra ngôn ngữ nào cũng thây hay. Hơn nữa, cần phải nói rằng: trong số những nhà thơ vĩ đại nhất của Châu Âu thì Shakespeare là người dễ cảm hơn, và gần mọi người hơn. Phải nói rằng đã có, và có nhiều bản dịch hay có tác dụng lớn đối với vãn học, mặc dầu bản dịch nào cũng chỉ thể hiện được “một mảnh” của Shakespeare mà thôi – cả bản dịch của Slêgen cũng vậy.
Việc dịch và giới thiệu Shakespeare ở Việt Nam có thể nói là chậm so với yêu cầu của bạn đọc. Mặc dầu năng lực rất hạn chế, các dịch giả, theo yêu cầu của Nhà xuất bản, cũng cố gắng đưa ra những tác phẩm dịch đứng đắn, trung thành với nguyên tắc. Chúng tôi cố diễn tả tất cả các hình tượng, các điển cố, các cách nói, dù những điều này có chỗ hơi xa lạ với tiếng Việt. O chỗ nào có thể hiểu hai ba nghĩa hay không thể diễn đạt được, thì chúng tôi chú thích. Cố nhiên làm như vây sẽ trở ngại đến tính chất trong sáng, uyển chuyển nhịp nhàng của câu văn Việt Nam, vì có những lời nghe chưa quen thuộc lắm. Nhưng chúng tôi tin rằng các bạn sẽ hiểu cho sự cố gắng của chúng tôi để phản ảnh trung thành tất cả cái độc đáo của tác giả. Tất nhiên, chúng tôi không thể có tham vọng lột tả được tất cả Shakespeare, nhưng chúng tôi hy vọng rằng không đến nỗi phản lại Shakespeare.
Mong rằng, mặc dầu có những điều thiếu sót trong việc giới thiệu và dịch thuật mà chúng tôi sẽ cố gắng bổ khuyết trong những lần tái bản, Tuyển tập tác phẩm w.Shakespeare xuất bản lần này sẽ đáp ứng được một phần những đòi hỏi của các bạn trên con đường tìm hiểu Shakespeare và sẽ gây được những cảm tưởng tốt đẹp đối với một thiên tài vĩ đại của văn học nhân loại.